– Văn bản trong chương trình Ngữ Văn 9 được viết cùng thể thơ: (Học sinh có thể tùy chọn 1 tác phẩm trong chương trình học có thể thơ tự do.
Gợi ý:
+ Tác phẩm Nói với con của tác giả Y Phương.
Câu 2. Hướng dẫn giải:
– Cặp hình ảnh tương ứng tạo nên sự sóng đôi trong đoạn trích:
Quê hương anh – làng tôi; nước mặn đồng chua – đất cày lên sỏi đá
– Tác dụng: Nghệ thuật sóng đôi cho thấy được sự đồng điệu trong hoàn cảnh của những người lính, họ hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh của nhau. Anh với tôi đều ra đi từ những làng quê nghèo khó, cùng chung hoàn cảnh xuất thân.
Câu 3. Hướng dẫn giải:
Giá trị biểu đạt của từ “đôi” trong câu “Anh với tôi đôi người xa lạ”:
– “Đôi” là hai, luôn có sự xuất hiện song hành và không tách rời.
– Từ đôi đặt giữa câu thơ giữa hai cụm “anh và tôi” và cụm “người xa lạ” cho thấy những người đồng chí từ chỗ không quen biết, xa lạ với nhau nhưng họ vẫn có sợi dây gắn kết vô hình: chung hoàn cảnh, chung lí tưởng, chung mục đích. Họ luôn đồng hành, kết đôi, từ “đôi” góp phần khẳng định sự gắn bó khăng khít của những người lính.
Câu 4. Hướng dẫn giải:
Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn khoảng 15 câu theo phép lập luận quy nạp, có sử dụng thành phần tình thái và thán từ. Bài làm không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ. Đảm bảo đủ 3 phần: mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
Yêu cầu về nội dung: Làm sáng tỏ được hình ảnh người lính. Bài làm có thể triển khai theo nhiều cách.
Dưới đây là gợi ý:
1. Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hình ảnh người lính trong tám dòng thơ cuối bài.
2. Thân đoạn
– Những người lính luôn đồng cam, cộng khổ với nhau:
+ Áo rách vai, quần có vài mảnh vá, chân không giày -> Cuộc sống vô cùng thiếu thốn, khó khăn.
+ Sự khắc nghiệt của khí hậu núi rừng -> nhưng họ đã vượt lên nhờ tinh thần lạc quan cách mạng, sự ấm áp của tình đồng chí.
– Là niềm yêu thương, gắn bó sâu nặng họ dành cho nhau: Hình ảnh “tay nắm bàn tay”:
+ Chất chứa bao yêu thương trìu mến. Họ sẵn lòng chia sẻ khó khăn khó khăn cùng nhau.
+ Chứa đựng cả những khao khát bên người thân yêu.
=> Chính tình đồng chí chân thành, cảm động và sâu sắc đã nâng đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
– Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí: Được xây dựng trên nền một hoàn cảnh khắc nghiệt:
+ Thời gian, không gian: rừng đêm hoang vu, lạnh lẽo.
+ Không khí căng thẳng trước một trận chiến đấu. Trước mắt họ là cả những mất mát, hi sinh không thể tránh khỏi.
=> Tâm hồn họ vẫn bay lên với hình ảnh vầng trăng nơi đầu súng.
=> Họ vẫn xuất hiện trong tư thế điềm tĩnh, chủ động “chờ giặc tới”.
=> Nhờ tựa vào sức mạnh của tinh thần đồng đội. Họ “đứng cạnh bên nhau” và trở thành một khối thống nhất không gì lay chuyển nổi.
– Sức mạnh tình đồng chí còn được thể hiện qua một hình ảnh thơ độc đáo, đầy sáng tạo: “Đầu súng trăng treo”:
+ Vốn là một hình ảnh thơ được cảm nhận từ thực tiễn chiến đấu. Song hình ảnh này mang nhiều ý nghĩa biểu tượng phong phú:
Gợi liên tưởng: chiến tranh – hòa bình, hiện thực – ảo mộng, kiên cường – lãng mạn, chất chiến sĩ – chất thi sĩ.
Gợi vẻ đẹp của tình đồng chí sâu sắc. Sự xuất hiện của vầng trăng là một bằng chứng về sức mạnh kì diệu của tình đồng đội.
Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính – một tâm hồn luôn trong trẻo, tươi mát dẫu phải băng qua lửa đạn chiến tranh.
Gợi vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam – một bàn tay giữ chắc cây súng mà trái tim luôn hướng đến những khát vọng thanh bình.
3. Kết đoạn: Khái quát lại hình tượng người lính.
Phần II: LÀM VĂN
Câu 1. Hướng dẫn giải:
Học sinh lựa chọn 1 phép liên kết và trình bày. Sau đây là gợi ý:
Học sinh có thể đưa ra quan điểm cá nhân và lý giải sao cho phù hợp.
Dưới đây là gợi ý:
Theo em, sẽ không ích kỷ khi nói rằng: “chúng ta không sống để đáp ứng mong đợi của người khác”, vì:
+ Mỗi người có một cuộc sống riêng, một hành trình riêng, một ước mơ riêng cần hướng đến. Vì vậy, mỗi người sẽ lại tự đặt cho mình những tiêu chí khác nhau, không ai giống ai
+ Nếu luôn sống để đáp ứng mong đợi của người khác, chúng ta sẽ mãi trở thành cái bóng, không được làm chính mình. Cứ mãi chạy theo những mong đợi của người khác, dần dần chúng ta sẽ mất đi bản sắc vốn có của bản thân
Câu 3. Hướng dẫn giải:
Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn khoảng ⅔ trang giấy thi, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ. Đảm bảo đủ 3 phần: mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
Yêu cầu về nội dung: Làm sáng tỏ được vấn đề nghị luận: Nên ứng xử thế nào trước mong đợi của những người thân yêu
Có thể triển khai theo nhiều cách khac nhau, dưới đây là gợi ý:
1. Giải thích
– Ứng xử là: là cách thể hiện thái độ, hành vi hay chính là sự giao tiếp, xử sự giữa con người với con người. Thông qua đó, hình thành sự thiết lập mối quan hệ giữa mọi người.
– Mong đợi: là hy vọng, mong muốn điều gì đó tốt đẹp cho những điều sắp xảy ra.
=> Ứng xử trước mong đợi của những người thân yêu: là cách suy nghĩ, hành động và xử sự của bản thân trước những kì vọng mà người thân chờ mong ở chúng ta.
2. Phân tích
– Trước những mong đợi của những người thân yêu, ta cần có những ứng xử phù hợp, thể hiện sự quan tâm, thấu hiểu và tôn trọng họ:
+ Lắng nghe và thấu hiểu: Dành thời gian để lắng nghe những gì người thân yêu chia sẻ, quan tâm đến suy nghĩ và cảm xúc của họ.
+ Giao tiếp cởi mở và chân thành: Chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân với người thân yêu một cách cởi mở và chân thành.
+ Kiên nhẫn và bao dung: Hiểu rằng mỗi người đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng.
+ Tôn trọng và trân trọng: Tôn trọng những giá trị, quan điểm và niềm tin của người thân yêu, dù có khác biệt với bản thân.
Học sinh tự lấy dẫn chứng phù hợp.
– Phản đề: Tuy nhiên, có những mong đợi của người thân dù ta đã cố gắng thấu hiểu, lắng nghe nhưng sự khác biệt về quan điểm đôi khi sẽ khiến chúng ta cư xử không đúng mực. Những lúc này, hãy bình tĩnh, chia sẻ quan điểm cá nhân và chứng minh được rằng mong đợi của người thân dù xuất phát từ ý tốt nhưng có thể nó không thực sự phù hợp với bản thân mình.
Đề bài: Một bạn cho rằng có rất nhiều ngày khai trường, nhưng ngày khai trường vào lớp Một để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong tâm hồn. Em có tán thành với ý kiến trên không? Vì sao?
DÀN Ý CHI TIẾT
1. Mở bài
Cảm nhận chung:
– Trong đời học sinh có rất nhiều ngày khai trường.
– Ngày khai trường dầu tiên vào lớp Một bao giờ cũng dể lại dấu ấn sâu đậm nhất.
2. Thân bài
* Diễn biến của buổi khai trường:
+ Trước khi đến trường:
– Tâm trạng nôn nao, háo hức lạ thường.
– Chuẩn bị dầy đủ sách vở, quần áo mới…
+ Lúc đến trường:
– Tung tăng di bên cạnh mẹ, nhìn cái gì cũng thấy đẹp đẽ, đáng yêu (bầu trời, mặt đất, con dường, cây cối, chim
muông… )
– Thấy ngôi trường thật to lớn, còn mình thì quá nhỏ bé.
– Ngại ngùng trước chỗ đông người.
– Được mẹ động viên nên mạnh dạn hơn đôi chút.
+ Lúc dự lễ khai trường:
– Lần dầu tiên trong đời, em dược dự một buổi lễ trang nghiêm như thế.
– Thấy ngỡ ngàng và lạ lùng.
– Vui và tự hào vì mình đã là học sinh lớp Một.
– Rụt rè làm quen với các bạn mới.
3. Kết bài
* Cảm xúc của em:
– Thấy rằng mình đã lớn.
– Tự hứa rằng mình cần phải chăm ngoan, học giỏi để cha mẹ và thầy cô vui lòng.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Năm nay em đã là học sinh lớp 7, trải qua 7 lần khai trường với bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò. Tuy thế, ngày khai trường vào lớp Một vẫn để lại trong kí ức em ấn tượng sâu đậm nhất. Mỗi khi nhắc tới, những hình ảnh đẹp đẽ dường như lại hiện lên nguyên vẹn trước mắt em.
Em còn nhớ là suốt mấy ngày liền, em sống trong tâm trạng nôn nao và háo hức. Bài hát quen thuộc mọi khi em vẫn hát sao hôm nay nghe xúc động lạ thường: Tạm biệt búp bê thân yêu, Tạm biệt gấu Misa nhé, Tạm biệt thỏ trắng xinh xinh, Mai ta vào lớp Một rồi, Nhớ lắm, thương nhiều, trường Mầm non thân yêu!
Có một điều gì đó lạ lắm, quan trọng lắm đang xảy ra trong căn nhà nhỏ bé của gia dình em. Ông bà, cha mẹ đã chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết cho em như chiếc cặp xinh xắn có hai quai để đeo lên vai; bộ sách giáo khoa, những cuốn tập bìa in hình chú chuột Mickey hay cô vịt Donan ngộ nghĩnh. Rồi hộp màu vẽ, chiếc bảng nhỏ, phấn viết, đồ lau, bút mực, bút chì… đủ cá. Em thích thú giở từng thứ, nhìn ngắm khong chán mắt. Đêm trước khai trường, cả nhà thức rất khuya để chuyện trò, bàn bạc. Nhân vật chính của mọi câu chuyện là em. Mẹ mặc thử cho em bộ đồng phục của học sinh Tiểu học. Chiếc áo trắng cổ lá sen, tay bồng, rất hợp với chiếc váy xanh màu tím than và đôi xăng đan nâu. Ô kìa! Lạ nhỉ! Có cô bé nào giống mình quá đang cười rất tươi, khoe hàm răng thưa và trắng như những hạt ngô non! Nhận ra bóng mình trong gương, em bật cười khanh khách. Bà nội xoa đầu em khen: “Cháu gái bà trông chững chạc ghê! Ngày mai, cháu đã thành học sinh lớp Một rồi! Cố gắng chăm ngoan và học thật giỏi cháu nhé!”
Sáng hôm sau, mẹ dắt em tới trường. Ngôi trường tiểu học Lê Văn Tám cách nhà em chỉ khoảng nửa cây số. Trên đường, bao bạn nhỏ tung tăng, hớn hở bên cạnh cha mẹ. Giăng ngang cổng trường là tấm băng rôn đỏ nổi bật dòng chữ vàng tươi: Chào mừng năm học mới. Hai hàng cờ đuôi nheo đủ màu phấp phới trong gió sớm trông giống như những bàn tay đang vẫy vẫy. Niềm vui tràn ngập nơi nơi, từ bầu trời trong xanh, quang đãng; từ màu nắng tinh khôi; từ tiếng chim líu lo chào đón bình minh trong những vòm lá lóng lánh sương thu; từ những gương mặt ngời ngời hạnh phúc và tin tưởng.
Trong sân trường, người đông dần. Các bạn nam tỏ ra mạnh dạn hơn. Các bạn nữ cứ ngại ngùng quẩn bên chân mẹ, chẳng nỡ rời. Em cũng vậy. Nhìn ngôi trường rộng lớn, em cảm thấy mình mới nhỏ bé làm sao! Mẹ khuyên em hãy bình tĩnh, vui vẻ và tập làm quen với chỗ đông người.
Bất chợt, một hồi trống vang lên giục giã. Giờ khai giảng sắp bắt đầu. Các bậc phụ huynh trao con mình cho các thầy cô giáo. Đây đó nổi lên tiếng khóc thút thít, tiếng gọi “Mẹ ơi!” nho nhỏ. Em không khóc nhưng nước mắt cũng rơm rớm quanh mi. Một nỗi xúc động khó tả đang dâng lên trong lòng. Em bịn rịn chia tay mẹ, cùng các bạn xếp hàng theo lớp ở sân trường.
Buổi khai giảng lần đầu tiên trong đời mới long trọng và trang nghiêm làm sao! Tiếng trống trường giòn giã, thôi thúc, náo nức lòng người. Lá cờ Tổ quốc bay phàn phật trong gió. Học sinh từng khối, từng lớp đội ngũ ngay ngắn, nghiêm chỉnh hướng về lá cờ Quốc kì. Tiếng quốc ca trầm hùng vang vang trên sân trường rực nắng. Các anh chị lớp Bốn, lớp Năm, khăn quàng đỏ thắm trên vai.
Mở đầu buổi lễ, cô Hiệu trưởng đọc lời khai giảng và dặn dò, khuyên nhủ chúng em nhiều điều. Cô chúc chúng em học tập ngày càng tiến bộ. Những tràng vỗ tay vang lên không ngớt.
Buổi lễ kết thúc, chúng em được cô Thanh chủ nhiệm đưa về lớp. Lớp Một A gồm bốn chục học sinh, con gái đông hơn con trai. Em nắm chặt tay Oanh và Nga, hai bạn học chung ở trường mẫu giáo Sơn Ca, lòng bớt lo âu. Chỉ một lúc sau, em đã biết tên các bạn ngồi cùng bàn là Hòa, Tâm và Ngọc. Những câu chào hỏi rụt rè làm quen cùng những ánh mắt bỡ ngỡ thật dễ thương!
Tan học, mẹ đã đợi sẵn ở cổng trường. Ríu rít như chú chim non, em kể cho mẹ nghe những chuyện đã xảy ra trong buổi khai trường đầu tiên trong đời. Em cảm thấy mình đã lớn. Dường như tất cả con người, cảnh vật đều chia vui với em, cô học trò lớp Một. Bên tai em văng vẳng lời khuyên của cô Hiệu trưởng: “Các em hãy chăm ngoan, hoc giỏi để cha mẹ vui lòng!”
– Hình thành: Khoảng thế kỷ IV-III TCN được viết bằng văn vần, tiếng Phạn được bổ sung, trau chuốt bởi nhiều thế hệ đạo sĩ và đạt đến hình thức hoàn thiện cuối cùng nhờ đạo sĩ Van-mi-ki (Van-mi-ki sống ở thế kỉ III TCN, được nhân dân Ấn Độ xem là nhà thơ đầu tiên của dân tộc mình. Thuộc đẳng cấp Bàlamôn, bị cha mẹ ruồng bỏ phải trốn vào rừng sâu làm thảo khấu. Sau được Na -ra-đa dạy bảo mà trở thành đạo sĩ)
– Ra-ma-ya-na là một trong hai bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ, có ảnh hưởng lâu bền, sâu rộng trong văn học, văn hóa không những của dân tộc Ấn mà còn của nhiều nước Đông Nam Á.
– Sử thi Ra-ma-ya-na gồm 24.000 câu thơ đôi, chia thành 24 khúc ca lớn kể về những kì tích của Ra-ma, hoàng tử trưởng của nhà vua Đa-xa-ra-tha.
b) Đoạn trích
Đoạn trích thuộc chương 79, khúc ca thứ 6 của sử thi Ra-ma-ya-na
2. Bố cục (hai phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “ra-va-na đâu có chịu đựng được lâu”): Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta, diễn biến tâm trạng của Ra-ma
– Phần 2 (còn lại): Diễn biến tâm trạng của Xi-ta
3. Tóm tắt
Vua Đa-xa-ra-tha có bốn người con trai do ba bà vợ sinh ra. Ra-ma là con cả, hơn hẳn các em về tài đức. Vua cha có ý định nhường ngôi cho chàng nhưng vì lời hứa với bà vợ thứ Ka-kê-i xinh đẹp nên đã đày Ra-ma vào rừng và trao ngôi lại cho Bha-ra-ta, con của Ka-kê-i. Ra-ma cùng vợ là Xi-ta và em trai Lắc-ma-na vào rừng sống ẩn dật. Quỷ vương Ra-va-na lập mưu cướp Xi-ta đem về làm vợ. Mặc quỷ vương dụ dỗ và ép buộc, Xi-ta vẫn kịch liệt chống cự. Được tướng khỉ Ha-nu-man giúp đỡ, Ra-ma đã cứu được Xi-ta. Nhưng sau đó, Ra-ma nghi ngờ tiết hạnh của Xi-ta và không muốn nhận lại nàng làm vợ. Để chứng tỏ lòng chung thuỷ của mình, Xi-ta đã nhảy vào lửa. Thần lửa biết Xi-ta trong sạch nên đã cứu nàng. Ra-ma và Xi-ta trở về kinh đô.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Hoàn cảnh tái hợp của Ra-ma và Xi-ta
– Nơi gặp gỡ: không gian cộng đồng, trước sự chứng kiến của rất nhiều người.
– Ra-ma trong tư cách kép với những ràng buộc kép: Ra-ma vừa là một vị vua, một anh hùng trọng danh dự đồng thời là một người chồng hết mực yêu thương và xót xa cho vợ của mình.
– Vị trí của Xi-ta: vừa là một người vợ xót xa, đau khổ, xấu hổ vừa là một con người đau đớn vì mất đi danh dự của mình.
=> Hoàn cảnh tái hợp rất đặc biệt, đặt các nhân vật vào tình huống đầy thử thách để thể hiện vai trò của mình trước mọi người.
2. Lời buộc tội của Ra-ma
– Trước khi Xi-ta bước lên dàn hỏa thiêu:
+ Rama đã gọi Xita là”phu nhân cao quý”, đây ko phải là cách gọi hạ thấp nhưng lại bộc lộ xa lạ, lạnh lùng, quan cách và đầy trịnh trọng, dường như không một chút thân mật
+ Thái độ ghen tuông, nghi ngờ Xi-ta (ngôn từ lạnh lùng, giọng điệu đay nghiến, ghen tuông, xua đuổi Xi-ta, buông những lời xúc phạm tầm thường..)
– Khi Xi-ta lên dàn hỏa thiêu: Không nói lời nào, mắt dán xuống đất và đau khổ vô biên khi Xita ta bước lên giàn hỏa thiêu, nhưng kiên quyết hi sinh tình yêu để bảo vệ danh dự của một anh hùng, một đức vua gương mẫu
=> Đứng trên tư cách kép (con người xã hội và con người cá nhân), đứng giữa tình yêu và danh dự, Ra-ma đã lựa chọn danh dự để làm tròn nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm của một đức vua. Qua đó, ca ngợi phẩm chất anh hùng lí tưởng của Ra-ma.
+ Nỗi đau tăng dần: “đau đớn đến nghẹt thở như một dây leo bị vòi voi quật nát”, “nàng muốn chôn vùi hình hài, thân xác của mình…”, “mỗi lời nói của Ra-ma như xuyên vào tái tim nàng một mũi tên”, “nước mắt nàng đổ xuống như suối”, “giọng nói nghẹn ngào, nức nở”…
– Lời đối đáp của Xi-ta:
+ Nàng đổ lỗi cho số phận, bênh vực mình
+ Xi-ta khẳng định: “Nhưng cái gì nằm trong sự kiểm soát của thiếp tức trái tim thiếp đây là thuộc về chàng”
=> Nàng khẳng định trái tim và tình yêu của nàng vẫn một mực thủy chung, dành trọn cho Ra-ma
+ Nàng trách móc Ra-ma:
• “Chàng chẳng cần mạo hiểm để có thể nguy hại đến thân mình và những người bạn hữu của chàng đã không phải chịu những phiền muộn, đau khổ”
• “Như một người thấp hèn bị cơn dày vò, người đang nghĩ về thiếp như một phụ nữ tầm thường”
• “Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi còn thanh niên chàng đã cướp thiếp.”
=> Nàng không chỉ trách móc mà còn phê phán Ra-ma. Qua đó cho thấy, Xi-ta không phải là người dễ dàng chấp nhận những phũ phàng, ngang trái. Xi-ta là người phụ nữ mạnh mẽ, cương quyết và chung thủy trong tình yêu.
– Hành động nhảy vào chảo lửa của Xi-ta:
+ Xi-ta nói với Lắc-ma-na chuẩn bị một dàn hỏa thiêu
+ Xi-ta đi quanh Ra-ma, cúi lậy chư thần, đấng Bra-ma, cầu xin sự chứng giám của thần Lửa A-nhi
+ Thái độ của mọi người: ai nấy, già cũng như trẻ , đau lòng đứt ruột.
+ Xi-ta không chết vì nàng nhận được sự che chở của thần lửa và đó cũng chính là sự chứng minh cho đức hạnh và tấm lòng thủy chung của Xi-ta.
=> Xi-ta là hình tượng người phụ nữ Ấn Độ cổ đại hoàn thiện, đáng được ngưỡng mộ – trong sáng, thủy chung, chân thực.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Đoạn trích cho chúng ta thấy được quan niệm của người ấn Độ cổ đại về người anh hùng, về đường quân vương mẫu mực và về người phụ nữ lí tưởng trong xã hội.
2. Nghệ thuật
– Ngôn ngữ: trang trọng, phong phú, biểu cảm.
– Xây dựng nhân vật lí tưởng với tâm lí, tính cách, hành động, cử chỉ, ngôn ngữ
– Nam Cao (1917 – 1951) tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Là một nhà văn hiện thực lớn (trước Cách Mạng), một nhà báo kháng chiến (sau Cách Mạng), một trong những văn sĩ tiêu biểu nhất thế kỷ 20 của Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
– Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải.
– Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định). Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.
– Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác “tìm đường” của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
– Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương.
– Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sỹ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới.
– Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành.
– Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích và bắn chết vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 tháng Mười âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh Bình).
– Năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật ngay trong đợt 1.
– Tác phẩm: Chí Phèo (1941), Truyện người hàng xóm (1944), Sống mòn (1956), Đôi mắt (1948), Đời thừa (1943),…
2. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn Chí Phèo, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ; khi in thành sách lần đầu năm 1941, Nhà xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (do Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đã đặt lại là Chí Phèo.
3. Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao
Truyện ngắn Chí Phèo là câu chuyện về nhân vật cùng tên Chí Phèo – một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ. Hắn được người làng chuyền tay nhau nuôi. Lớn lên, Chí Phèo đi ở hết nhà này tới nhà nọ và làm canh điền cho Lý Kiến. Vì ghen tuông vô lí, Lý Kiến đẩy Chí Phèo vào tù. Bảy năm sau Chí Phèo trở về làng trong một bộ dạng khác hẳn của một tay anh chị. Hắn bị Bá Kiến lợi dụng và biến thành tay sai. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chuyên rạch mặt ăn vạ và gây tai họa cho người trong làng.
Mối tình với Thị Nở đã làm Chí Phèo hồi sinh, hắn khao khát làm hòa với mọi người và sống lương thiện. Nhưng bà cô Thị Nở và cái xã hội đương thời đã chặn đứng con đường trở về làm người lương thiện của Chí. Tuyệt vọng, hắn tìm giết Bá Kiến và tự sát. Nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn xuống bụng và thầm nghĩ đến một cái lò gạch bỏ không, xa đường cái và vắng người qua lại.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Chí Phèo và con đường tha hóa: của người nông dân trước Cách mạng
– Chí Phèo có tuổi thơ bất hạnh: Chí Phèo vốn mồ côi, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ, được người làng chuyền tay nhau nuôi: Anh thả ống lươn nhặt được mang về cho bà góa mù nuôi; rồi bà ấy cho bác phó cối không con, rồi bác ấy chết, Chí Phèo trở thành đứa trẻ lang thang, không nhà cửa, không một tấc đất cắm dùi.
– Chí Phèo là người nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng.
+ Năm hai mươi tuổi, Chí làm canh điền cho nhà Lí Kiến. Chí cũng có ước mơ, hy vọng bình dị về mái ấm gia đình, ở đó có chồng cày thuê, vợ dệt vải,… Chí không những chăm chỉ, hiền lành mà hắn còn giàu lòng tự trọng, có ý thức về danh dự. Khi bị vợ ba của Lí Kiến sai bóp chân, Chí cảm thấy xấu hổ, nhục nhã.
=> Như vậy, từ lúc ra đời cho đến năm hai mươi tuổi, Chí Phèo là một nông dân lương thiện, chất phác như bao người khác trong xã hội.
– Chí Phèo trở thành tay sai cho bá Kiến, con quỷ của làng Vũ Đại: Chỉ vì ghen tuông vu vơ, Bá Kiến nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Nhà tù thực dân tiếp tay cho bọn cường hào nên chỉ sau 7,8 năm ở tù, Chí đã hoàn toàn bị tha hóa. Ra tù, Chí bị tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành một người khác, với cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ, trông hắn thật gớm chết. Hắn cũng luôn trong trạng thái say triền miên, ăn ngủ, rạch mặt, chửi bới trong lúc say. Không những thế, tính cách hắn cũng thay đổi. Chí không còn là anh canh điền ngày xưa mà trở thành một thằng liều mạng, có thể làm mọi việc vì tiền như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, ăn vạ, đập phá, đâm chém,…
– Quá trình tha hóa của Chí diễn ra khá nhanh chóng:
+ Lần thứ nhất sau khi ra tù, Chí tìm đến nhà bá Kiến để trả thù nhưng khi được vỗ về bằng những lời ngọt ngào, được thiết đãi bằng rượu thịt và còn được biếu hẳn một đồng bạc để uống rượu, Chí đã không còn nhớ đến mối thù nữa.
+ Lần thứ hai, Chí đến nhà bá Kiến để xin tiền uống rượu và trở thành tay sai ho bá Kiến, nhận đòi nợ Đội Tảo 50 đồng. Hắn được trả công 5 đồng và 5 sào vườn ở bãi sông.
=> Như vậy, từ một người nông dân lương thiện, Chí đã bị bọn thống trị lợi dụng và trở thành tay sai cho bá Kiến, thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đe dọa biết bao nhiêu cuộc đời.
– Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo: Lúc say, bao giờ hắn vừa đi, vừa chửi. Hắn chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn. Nhưng không ai lên tiếng, không ai đáp lại, không ai để ý. Hắn đã bị khai trừ ra khỏi cộng đồng loài người, giờ đây Chí sống tăm tối như thú vật, xa lại với mọi người, với xã hội loài người.
=> Tiếng chửi là phản ứng của hắn trước cuộc đời, là sự quẫy đạp của một con người trong tâm trạng bất mãn, tuyệt vọng, cô độc.
– Nỗi đau khổ của Chí gói trọn trong tiếng chửi tưởng như vô thức ấy. Đó là bi kịch của con người bần cùng hóa đến lưu manh hóa, không chỉ bị hủy hoại hình hài, nhân tính mà còn là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Sức mạnh tố cáo, giá trị hiện thực của tác phẩm là ở chỗ đó.
– Chí phèo hoàn lương – Bị kịch của con người bị cự tuyệt quyền làm người: Mỗi tình với Thị Nở:
+ Thị Nở là một người phụ nữ xấu xí ma chê quỷ hờn, lại ngẩn ngơ, dở hơi, có mả hủi, nghèo lại ế chồng, ngoài ba mươi tuổi mà chưa có chồng.
+ Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Chí Phèo và Thị Nở là sự kiện có tính bước ngoặt cuộc đời hắn. Thị Nở ra bờ sông kín nước, ngồi nghỉ rồi ngủ quên trong vườn chuối nhà Chí Phèo. Chi say rượu trở về thấy Thị và họ đã ăn nằm với nhau. Nửa đêm, hắn đau bụng, nôn mửa và được thị dìu vào lều chăm sóc.
– Tâm trạng Chí Phèo khi tỉnh dậy:
+ Lần đầu tiên từ lúc ra từ, Chí tỉnh rượu. Hắn thấy bâng khuâng, lòng mơ hồ buồn. Hắn nhận ra âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh: tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng trò chuyện của những người đàn bà đi buôn vải,… Đó là tiếng gọi tha thiết mà rất đỗi bình dị, thân thương của cuộc sống.
+ Hắn nhìn lại đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Hắn nhớ về quá khứ với ước mơ nhỏ bé, giản bị về hạnh phúc gia đình. Khát vọng bình dị ấy vọng về làm hắn cảm thấy tiếc nuối và lòng nao nao buồn. Quay lại hiện tại, hắn thấy hắn đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời, cơ thể đã hư nhiều, thế mà hắn vẫn còn cô độc. Chí nhận ra cuộc đời hắn thật đáng buồn, hắn cay đắng vì tình trạng tuyệt vọng của đời mình. Còn tương lai, hắn nhìn thấy đói rét, ốm đau và nhất là cô độc. Hắn sợ cô độc.
=> Có thể nói, cuộc gặp gỡ với Thị Nở và trận ốm đã làm tâm hồn Chí hồi sinh, hắn bắt đầu ý thức đầy đủ và sâu sắc về cuộc đời mình. Nam Cao miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tự nhiên, tinh tế, hợp lí.
– Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành của Thị Nở:
+ Khi tỉnh dậy sau cơn say và trận ốm, hắn được Thị Nở mang cho một bát cháo hành. Bát cháo hành vừa là hình ảnh thực, vừa là hình ảnh tượng trưng mang ý nghĩa biểu tượng.
+ Với Thị Nở, đó là bát cháo của tình thương, tình nghĩa của thị dành cho Chí Phèo.
+ Còn với Chí, bát cháo hành có ý nghĩa đặc biệt. Lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà cho nên hắn từ ngạc nhiên, xúc động: mắt ươn ướt, bâng khuâng, vừa vui lại vừa buồn. Hắn cảm nhận được tình yêu thương, khát khao hạnh phúc lứa đôi. Hắn cảm thấy cháo hành rất ngon. Bát cháo hành bình dị nhưng làm hồi sinh bản chất hiền lành, lương thiện vốn có trong con người Chí. Hắn cảm thấy ăn năn, lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với thị. Hắn thấy thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người. Chí phèo đã trở lại là anh canh điền ngày xưa hiền lành, chất phác. Đó là bản chất đẹp đẽ vốn có trong con người Chí bị lấp đi, nay có cơ hội hồi sinh. Chí Phèo hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, hòa nhập với mọi người, chấm dứt đoạn đời thú vật. Khát vọng làm người lương thiện này thật đáng trân trọng.
=> Bát cháo hành là biểu tượng cho tình thương, thức tỉnh lương tri, lương tâm trong con người Chí Phèo. Chi tiết này có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
2. Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người
– Bị cự tuyệt quyền làm người người của Chí Phèo được thể hiện qua những tiếng chửi từ đầu truyện. Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm lần đầu tiên không phải bằng xương, bằng thịt mà thông qua tiếng chửi, hắn vừa đi vừa chửi để đối thoại với cuộc đời. Nhưng điều đau đớn ở đây là: cho dù gắn đã tìm mọi cách để giao tiếp với đời, với dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai quan tâm, đáp lại. Nhà văn đã thành công trong việc sử dụng tiếng chửi để mở đầu cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
– Bi kịch bị cự tuyệt làm người của Chí Phèo được nhà văn tiếp tục hé lộ qua việc giới thiệu hoàn cảnh xuất thân. Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi ngay từ khi mới sinh ra, trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên ngoài cái lò gạch bỏ không. Hắn đã được người làng chuyền tay nhau nuôi lớn. Bị chính những người thân của mình bỏ rơi và chưa một lần được gặp họ, nhưng Chí Phèo đã cố gắng rất nhiều trong cuộc sống. Hắn cũng đã từng có ước mơ về mái gia đình yên ấm, hạnh phúc. Chỉ vì một cơn ghen tuông vô cớ của Lí Kiến đã đẩy Chí Phèo vào cảnh tù tội. Sau đó, nhà thực dân phong kiến đã tiếp tục đầy Chí Phèo thành kẻ lưu manh hóa.
– Bi kịch tha hóa, lưu manh hóa là con đường dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt làm người của Chí Phèo. Chí Phèo đã thay đổi cả nhân tình và nhấn tính, thành con quỷ dữ, là nỗi ám ảnh của dân làng Vũ Đại. Hắn bị mọi người xa lánh và khiếp sợ.
– Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo là khi bị Thị Nở từ chối tình yêu:
+ Cuộc đời Chí Phèo đã thay đổi rất nhiều từ khi gặp Thị Nở. Mặc dù nhà văn đã miêu tả Thị Nở là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn nhưng tình yêu thương của Thị Nở đã cứu vớt cuộc đời Chí Phèo. Hắn khao khát thành người lương thiện và ước mơ một mái ấm gia đình. Nhưng chính Thị Nở cũng là người đóng cánh cửa trở về với lương thiện của Chí Phèo. Thị Nở đã cắt đứt với Chí Phèo vì bị bà cô cấm đoán; cả làng Vũ Đại, cả xã hội không ai đón nhận linh hồn người vừa trở về của Chí. Định kiến của bà cô cũng là định kiến của xã hội đương thời, làm cho Chí đau đớn và tuyệt vọng.
+ Hắn uống rượu cho thật say, nhưng càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hắn ôm mặt khóc rưng rức hắn càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con khọm già, con đĩ Nở nhưng sự thức tỉnh về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí Phèo dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này, Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến.
+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu nay trong con người của Chí càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người: Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện?. Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.
+ Chí giết Bá Kiến và tự sát. Cái chết của Chí Phèo là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến, một cuộc sống mà trong đó con người muốn sống lương thiện cũng không được.
=> Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo là bản án đanh thép tố cáo hiện thực xã hội đương thời.
3. Nhân vật Thị Nở
– Thị Nở là một người đàn bà có ngoại hình xấu xí, vừa xấu vừa ngớ ngẩn. Cái xấu của Thị Nở được Nam Cao gói gọn trong bốn từ: Ma chê quỷ hờn. Chỉ bốn chữ đó đã cso thể khiến người đọc hình dung ra dung mạo người phụ nữ làng Vũ Đại này. Người ta vẫn bảo ở đời ít người vừa xấu xí, vừa nghèo, vừa ngớ ngẩn. Nhưng thực ra Thị Nở lại mang trong mình cả ba điều đó. Chỉ có như thế Thị Nở mới có thể sánh với Chí Phèo, những người cùng cảnh ngộ.
– Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị, vì ngoại hình thô kệch và nghèo. Thị đi gánh nước thuê để kiếm sống qua ngày. Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. Có lẽ đây chính là dụng ý của Nam Cao khi để Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau. Những kẻ cùng đường trong xã hội đến với nhau, yêu thương nhau, có thể chỉ trong phút chốc nhưng cũng gọi là có được tình yêu.
– Thị Nở là người đàn bà nghèo, xấu xí, tính tình ngớ ngẩn nhưng lại có một tấm lòng rất sáng, là tình yêu thương người. Có lẽ đây chính là điều mà Nam Cao muốn gửi gắm, nhắn nhủ đến mọi người.
– Nhân vật Thị Nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dàn cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm tình yêu, đoạn văn đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội.
– Thị Nở thương Chí Phèo, một tình thương xuất phát từ trái tim, lòng cảm thông sâu sắc, không vu lợi, không cá nhân. Chỉ đơn thuần đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Hắn cần Thị, cả cuộc đời hắn cần thị như thế. Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau trong cái đêm hôm ấy, đêm Chí Phèo say rượu, họ sống như vợ chồng suốt mấy ngày. Bát cháo hành là động lực, là sợi dây kết nối tình cảm giữa Thị Nở và Chí Phèo. Có thể nói Thị Nở và bát cháo hành là cứu cánh cho cuộc đời Chí Phèo về sau.
=> Nam Cao đã để cho người đọc nhiều ám ảnh về nhân vật Thị Nở. Là người có thể làm thay đổi Chí Phèo, cũng là người mang lại yêu thương nhỏ nhoi, ít ỏi cho Chí. Đây chính là giá trị nhân văn củ truyện ngắn Chí Phèo.
4. Giá trị nhân đạo của truyện
– Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây trước hết được biểu hiện ở chỗ đã khám phá ra nỗi khổ bị đày đọa, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người của người lao động lương thiện. Nam Cao bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đó. Qua tấn bi kịch và số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao đã cất lên tiếng kêu cứu thảm thiết và đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện: Làm thế nào để cho con người được sống một cuộc sống xứng đáng trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy; hãy tiêu diệt hoàn cảnh phi nhân tính, hãy làm cho hoàn cảnh nhân đạo hơn.
– Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo còn thể hiện qua thái độ lên án gay gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi kịch đau thương cho người lao động (bọn thống trị độc ác; nhà tù thực dân; những thành kiến, định kiến vô nhân đạo).
– Tư tưởng nhân đạo đặc sắc, độc đáo của Nam Cao ở đây còn được thể hiện ở thái độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp người nông dân. Cao hơn nữa, nhà văn còn khám phá ra những phẩm chất lương thiện của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như u mê, cằn cỗi.
* Những vẻ đẹp ở Chí Phèo
– Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện, giàu lòng tự trọng, biết “không thích cái gì người ta khinh”; biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn. Những lần “bà ba, cái con quỷ cái” bắt hắn làm những việc không chính đáng “hắn thấy nhục, chứ yêu đương gì”.
– Hắn đã từng mơ ước rất bình dị: “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi một con lợn để làm vốn liếng. “Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
– Bị nhà tù xã hội thực dân phong kiến biến Chí thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, nhưng dưới đáy sâu tâm hồn hắn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm.
– Khát khao tình yêu hạnh phúc lứa đôi: biết yêu thương, biết “say sưa”, “rưng rưng” và “bẽn lẽn” nhận ra hương vị cháo hành “Trời ơi mới thơm làm sao!”. Đó là hương vị của tình người, của tình yêu chân thành, của hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng. Chí Phèo muốn được sống với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Và khi bị “cắt đứt mối tình”, Chí biết tiếc, biết buồn, biết khóc vầ uất ức, giận dữ.
– Khát khao được làm người lương thiện. Chí Phèo “muốn được làm người lương thiện”! “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. “Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lai không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng… của những người lương thiện”. Điều đó đã có lúc khiến Chí Phèo hồi hộp hi vọng.
+ Có tinh thần phản kháng: Khi bị Thị Nở cự tuyệt và nhận ra mọi ngỏe đường trở lại xã hội loài người bị chặn đứng, Chí Phèo đã đến thẳng nhà Bá Kiến, vung lưỡi dao căm hờn lên giết chết Bá Kiến – kẻ thù khủng khiếp đã cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính của Chí để đòi quyền làm người lương thiện của mình. Sau đó Chí Phèo đã tự sát vì tuyệt vọng, vì Chí không muốn sống tăm tối, tủi nhục như kiếp sống thú vật nữa.
=> Dựng lên một hình tượng người nông dân bị tha hóa, “một con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, Nam Cao không hề có ý định bôi nhọ người nông dân, trái lại đã dõng dạc khẳng định nhân phẩm của họ, trong khi họ đã bị rách nát cả hình hài lẫn tâm hồn. Điều đó chứng tỏ con mắt nhân đạo của Nam Cao rất sâu sắc, mới mẻ và “tinh đời”.
* Những vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở
– Tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” còn được biểu hiện ở việc phát hiện ra vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở.
– Dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành người phụ nữa rất giàu tình thương. Đằng sau cái bề ngoài xấu xí và tính khí “dở hơi” còn ẩn chứa một trái tim nhân hậu. Khi Chí Phèo bị ốm, Thị Nở đã chăm sóc tận tình… Với bàn tay dịu dàng, ấm nóng nhân tình của người phụ nữa, Thị đã mang đến cho Chí một bát cháo hành còn “bốc khói”. Chính bát cháo hành ấm nóng tình người ấy đã đánh thức dậy nhân tính của Chí Phèo.
– Cũng như những người phụ nữ khác, Thị Nở rất khao khát tình yêu và hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ của hai kẻ khốn khổ đã tạo nên sự đồng cảm và Thị Nở đã yêu Chí Phèo, ước ao được sống chung với Chí. Tình yêu đã làm cho người đàn bà “xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn” ấy biến đổi một cách kì diệu: “Trông thị thế mà có duyệt. Tình yêu làm cho có duyên”. Phát hiện ra điều đó chứng tỏ cái nhìn nhân đạo của Nam Cao có chiều sâu hiếm có.
III. Tổng kết
Chí Phèo đã khái quát một hiện tương xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.
– Thạch Lam (1909 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân. Quê nội làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê ngoại Cẩm Giàng, Hải Dương.
– Thạch Lam sinh ở Hà Nội trong một gia đình công chức gốc quan lại. Ông là em ruột Nhất Linh và Hoàng Đạo; cả ba đề là thành viên của Tự lực văn đoàn. Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình ở quê ngoại, sau đó theo cha chuyển sang Thái Bình tiếp tục bậc tiểu học. Lớn lên, ông cùng gia đình chuyển ra Hà Nội, học trường Canh nông, rồi trường Trung học Albert Saraut.
– Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ 1932, thành viên của Tự lực văn đoàn. Ông tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hóa, Ngày nay. Thạch Lam mất vì bệnh lao năm 1942 tại Hà Nội.
– Thạch Lam là người đôn hậu và rất đỗi tinh tế. Ông có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn. Ông thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng văn điềm đạm nhưng chất chứa nhiều tình cảm chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước cảnh vật và con người. Văn của ông trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc.
– Tác phẩm chính các tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn(1938), Sợi tóc (1942); tiểu thuyết Ngày mới(1939); tập tiểu luận Theo dòng (1941); tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường (1943).
2. Hoành cảnh sáng tác
– Nhà văn có những ngày tháng sống tại phố huyện Cẩm Giàng, vốn là người nhạy cảm nhà văn nhận thấy đồng cảm và xót thương với cuộc sống của người dân nơi đây và đã sáng tác nên truyện ngắn này.
– Truyện ngắn Hai đứa trẻ được in trong trong tập “ Nắng trong vườn”-xuất bản 1938.
3. Tóm tắt văn bản Hai đứa trẻ – Thạch Lam
Hai đứa trẻ viết về cuộc sống tăm tối nghèo nàn của những người lao động nghèo ở 1 phố huyện bé nhỏ. Chị em Liên và An được cha mẹ giao cho trong nom 1 cửa hàng tạp hóa nhỏ. Cũng như những người dân phố huyện, chị em Liên vừa bán hàng, vừa trông chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về. Chuyến tàu mang 1 chút ánh sáng của Hà Nội ầm ầm chạy vụt qua ròi im tiếng trong màn đêm sâu thẳm. Phố huyện và chị em Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Bức tranh phố huyện
– Bức tranh phố huyện: Những biểu hiện của cảnh vật thiên nhiên phố huyện được nhà văn miêu tả qua màu sắc, âm thanh, mùi vị:
+ Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một tiếng trống thu không vang vọng như đang gọi: Chiều, chiều rồi. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Tiếp theo là hình ảnh mặt trời đang lụi tàn đỏ rực như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như hòn than sắp tàn. Tiếp đến là những lũy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều êm ả như ru trong những âm thanh văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng được ngọn gió nhẹ hoang vu mang vào phố huyện.
+ Hòa vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi mùi ẩm mốc bốc lên hào vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi. Với hai chị em Liên, đó là mùi riêng của đất, của quê hương bình dị, quen thuộc.
+ Đêm xuống, phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông: Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó những điểm sáng le lói, lập lòe, yếu ớt của đàn đom đóm, một quầng sáng lờ mờ của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những hột sáng nhỏ nhoi lọt qua phên nữa nơi gian hàng của chị em Liên. Tất cả được thể hiện một cách tinh tế, chân thật, gợi hồn quê.
– Nghệ thuật miêu tả của tác giả trong Hai đứa trẻ:
+ Tác giả không trực tiếp mô tả qua cảm nhận của mình mà qua cảm nhận và quan sát của nhân vật Liên.
+ Được thể hiện bằng những motip của ánh sáng, bóng tối.
+ Cảnh vật có một sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc, âm thanh và mùi vị.
+ Lối hành văn giàu chất nhạc, gần với thơ ca.
– Bức tranh cuộc sống con người phố huyện trong Hai đứa trẻ.
+ Trong cảnh chiều tàn: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên.
+ Đặc điểm chung của các mảnh đời: nghèo khó, lam lũ, mòn mỏi, héo hắt.
+ Trên cái nền cảu bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Nhìn cảnh ấy, Liên động lòng thương nhưng không có tiền để cho chúng nó.
+ Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiện thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật nghèo nàn, tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chiều đến đêm.
+ Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên lảo đảo đi lẫn vào bóng tối với tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng. Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm, mất đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ế ẩm.
+ Khép lại những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì không có người nghe. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Cha cảu hai em mất việc phải rời Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng tạp hóa nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa một vùng sáng rực của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Giờ đây mùi phở bác Siêu trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền mà hai em không thể nào mơ tưởng.
– Để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên là tâm hồn rất nhạy cảm, giàu yêu thương, dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những người nghèo khổ nơi phố huyện. Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố huyện đều sống trong cảnh nhếch nhác, quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã, ít hy vọng vào lối sống bấp bênh có tình cầu may của mình. Đó là một cuộc sống mòn mỏi, lay lắt, rất tương đồng với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối của phố huyện.
=> Tất cả những mảnh đời trong Hai đứa trẻ đều được nhà văn mô tả bằng nét bút chân thực nhưng khác với các nhà văn hiện thực, Thạch Lam không đi vào mô tả cụ thể, chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét chấm phá thoáng nhẹ nhưng rất tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân vật cứ hiện ra từ từ trong lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít hành động nhưng nhờ đó mà nhà văn đã tô đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng về kiếp sống héo hắt, leo lét, tội nghiệp của cư dân phố huyện.
2. Nhân vật Liên
– Liên là nhân vật được Thạch Lam tập trung khắc họa nhiều nhất trong tác phẩm. Liên là một cô bé mới tám, chín tuổi. Lứa tuổi mà người xưa cho rằng: ăn chưa no, lo chưa tới, nói đúng hơn là cái tuổi vô tư, vô lo nhưng mọi điều đều ngược lại. Dưới ngòi chút của Thạch Lam, Liên hiện lên với hình ảnh một cô bé nhưng già đi trước tuổi. Tuổi thơ của cô chìm trong nỗi buồn của sự tàn tạ, héo hắt của một cuộc sống đầy bóng tối, bế tắc không lối thoát. Đối với tâm hồn thơ bé ấy đoàn tàu đêm từ Hà Nội chạy ngang qua phố huyện chính là niềm an ủi cuối cùng của cuộc sống.
– Thầy Liên mất việc đã đặt dấu chấm hết cho những tháng ngày sống ở Hà Nội. Con phố nhỏ Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương, nơi đón chị em về là một nơi đói nghèo trong rộm rạ với những kiếp người nhỏ bé, lay lắt. Bản thân gia đình cũng chẳng khá giả gì hơn, mẹ làm hàng xáo, chỉ em Liên trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu với những thức hàng lặt vặt, ngày phiên mà cũng chẳng bán được bao nhiêu.
– Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những thay đổi của cuộc sống. Tâm trạng cảu Liên cũng diễn biến theo thời gian. Trong bóng chiều nhá nhem, Liên nhìn về bãi chợ vãn, nơi những người bán hàng về muộn, cô đã động lòng thương trước những mảnh đời cơ cực, đó chính là hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại, lang thang trên mặt đất, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì của những người bán hàng để lại. Hình ảnh đó như xoáy sâu vào lòng trắc ẩn của cô bé mới tám tuổi giàu lòng nhân ái. Liên thấy thương cho những đứa trẻ nghèo, nhưng chính chị cũng không có tiền để cho chúng nó.
– Nhân vật Liên thường ít nói nhưng suy tư nhiều và mang đến những vẻ đẹp tình người đằng sau những suy nghĩ thiết tha của cuộc sống. Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê gớm: tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa.
– Liên thương hết thảy những con người nơi phố huyện nhỏ bé này.
+ Đó là chị Tí với cuộc đời cơ cực: ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến cùng gánh hàng nghèo xơ xác với bát nước chè, điếu thuốc lào, thanh kẹo lạc, tất cả gia tài mưu sinh bên ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.
+ Liên thương bác phở Siêu với gánh hàng phở xa xỉ, ế ẩm nhưng đêm nào cũng thấy bác dọn hàng.
+ Thương bác Xẩm với manh chiếu rách tả tơi cùng chiếc thau sắt trống trơn chưa một niềm hy vọng, thương lắm những tiếng đàn bác góp chuyện run bần bật trong đêm yên lặng.
+ Thương bà cụ Thi điên đơn chiếc với tiếng cười chìm vào bóng tối,…
=> Cuộc sống phố huyện là như vậy, đêm nào cũng tẻ nhạt, đơn điệu cứ lặp đi, lặp lại.
– Tâm trạng đợi tàu của chị em Liên đã thực sự làm người đọc xúc động. Mới bảy tám tuổi mà mẹ đã bắt Liên trông coi một cửa hàng tạp hóa lại còn thức cho tới khuya để đợi bán hàng, để được nhìn thấy hình ảnh cuối cùng của phố huyện trước khi chúng chìm vào bóng tối. Tuy nhiên, con tàu chỉ thoáng qua rồi biến mất, hy vọng đối với Liên vẫn mong manh với một quá khứ huy hoàng, một tương lai mờ mịt.
3. Hình ảnh chuyến tàu đêm
– Tàu đến trong niềm vui, sự náo nức của hai chị em Liên. Khi người gác ghi xuất hiện, rồi Liên thấy một ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi tiếng còi xe lửa kéo dài ra theo ngọn gió. Lúc này Liên đã đánh thức em dậy. Sau đó, hai chị em nghe tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi kèm theo một làn khói trắng, tiếng hành khách ồn ào. Tàu rầm rộ đi tới các toa đèn sáng trưng, những toa hạng sang lố nhố người, đồng và kền lấp lánh. Liên dắt tay em đứng dậy nhìn.
– Tàu đi qua trong nỗi buồn, sự tiếc nuối của hai chị em. Trong chốc lát, đoàn tàu đi vào đêm tối để lại những đốm than đỏ tung bay trên đường sắt, chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre…
– Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh đoàn tàu: Đối với hai chị em Liên, cả hai chị em cố thức đợi tàu không xuất phát từ nhu cầu đời sống vật chất mà từ nhu cầu đời sống tinh thần:
+ Chuyến tàu gợi nhớ những kỷ niệm đẹp về Hà Nội, đưa hai chị em Liên trở về quá khứ tươi đẹp ở Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Ở đó, khi thầy Liên chưa mất việc, cuộc sống còn khá giả, hai chị em Liên được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.
+ Chuyến tàu còn mang đến một thế giới khác. Ánh sáng rực rỡ và âm thanh rộn rã của nó gợi ra một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu, giúp cho hai chị em thoát khỏi cuộc sống buồn tẻ, quẩn quanh, bế tắc của phố huyện nghèo.
– Đối với người dân phố huyện, chuyến tàu đêm mang một thế giới khác, biểu tượng cho cuộc sống giàu sang, rực rỡ ánh sáng khác với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tăm tối nơi phố huyện. Đó là thế giới của ước mơ, hy vọng đổi thay.
=> Thái độ của nhà văn và thông điệp gửi gắm: Qua Hai đứa trẻ, Thạch Lam trân trọng, nâng niu khát vọng vương tới cuộc sống tươi sáng của những con người nhỏ bé bình thường. Đồng thời nhà văn cũng bộc lộ niềm cảm thông, thương xót đối với những kiếp người nhỏ bé, sống trong nghèo khổ, tăm tối, buồn chán nơi phố huyện. Cách chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua cho thầy từ trong sâu thẳm tâm hồn, họ đều có ước mơ, khát vọng vươn lên, đổi đời, hướng về những điều tốt đẹp trong cuộc đời. Từ đó gợi lên niềm trân trọng và xót thương cho người đọc.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Hai đứa trẻ thể hiện niềm thương xót đối với những kiếp người cơ cực, quẩn quanh, tăm tối nơi phố huyện nghèo trước cách mạng. Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện sự trân trọng ước mong đổi đời tuy còn nhỏ bé, mơ hồ của họ.
2. Nghệ thuật
Hai đứa trẻ thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Thạch Lam: Truyện không có cốt truyện rõ ràng,thiên về khai thác thế giới nội tâm,hành vi, hành văn nhẹ nhàng mềm mại; có sự đan cài của chất hiện thực, chất trữ tình, chất tương phản tạo cho tác phẩm có sức hút đặc biệt.
– Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời đại lịch sử (cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX) đầy những biến động dữ dội.
+ Chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng sâu sắc, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực dẫn đến Lê – Trịnh suy tàn.
+ Phong trào nông dân nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đã đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị và đánh tan hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh.
+ Nhà Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì sụp đổ, nhà Nguyễn lên trị vì.
=> Tất cả những biến động đó đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và con người Nguyễn Du.
2. Tác giả Nguyễn Du
2.1. Cuộc đời
– Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
– Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống hiếu học.
+ Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng làm tể tướng 15 năm.
+ Anh trai cùng cha khác mẹ – Nguyễn Khản cũng làm đến chức Tham Tụng (ngang với Tể Tướng).
– Ông sinh ra và lớn lên ở kinh đô Thăng Long sầm uất, phồn hoa, đô thị.
=> Ngay từ rất sớm Nguyễn Du đã được tiếp nhận một nền giáo dục tiến bộ của thời đại, cũng như kế thừa được truyền thống văn hóa thi thư của gia đình.
– Song tuổi thơ của Nguyễn Du không hẳn là bình yên, êm ả mà trải qua khá nhiều những thăng trầm, mất mát:
+ Năm 10 tuổi ông mồ côi cha.
+ Năm 12 tuổi ông tuổi mồ côi mẹ.
+ Nguyễn Du phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
– Do những xoay vần, biến động dữ dội của lịch sử, gia đình Nguyễn Du cũng sớm rơi vào sa sút.
+ Khi triều Lê – Trịnh sụp đổ, nhà Tây Sơn lên thay, Nguyễn Du phải phiêu bạt 10 năm nơi đất Bắc (10 năm gió bụi), rồi về ở ẩn tại Hà Tĩnh. Đây là những năm tháng ông sống trong cảnh nghèo đói, túng bấn và tủi nhục.
+ Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du bất đắc chí phải ra làm quan và giữ nhiều trọng trách quan trọng. Ông hai lần được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc nhưng lần thứ hai, ông chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất tại Huế năm 1820.
=> Cuộc đời Nguyễn Du kinh qua đầy những thăng trầm, biến động. Song, tất cả góp phần tạo nên dấu ấn cho những tác phẩm nổi tiếng và có giá trị sâu sắc của ông.
2.2. Con người
– Nguyễn Du là người thông minh, tài trí, có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú, lại sinh ra và lớn lên ở những nơi được coi là cái nôi văn hóa của đất nước.
– Sớm phải chịu cảnh mồ côi, nên cuộc đời ông trải qua nhiều gian truân, trôi dạt, long đong. Đặc biệt là “mười năm gió bụi”, được tiếp xúc với nhiều kiểu người, chứng kiến nhiều cảnh đời và nhiều số phận khác nhau. Chính những vốn sống thực tế phong phú và niềm cảm thông sâu sắc đó đã tạo cho ông cảm hứng để sáng tác nên nhiều tác phẩm văn học giá trị.
– Truyền thống thi thư của gia đình đã cho ông năng khiếu văn học. Nhưng hơn tất cả, Nguyễn Du còn là người có một trái tim giàu yêu thương và một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế luôn cảm thông cho những đau thương, cực khổ của nhân dân.
– Ông là người thanh liêm và có nhân cách sống cao thượng. Trước tình hình rối ren, nhũng nhiễu của bọn quan lại, chỉ biết vinh thân phì gia, ông đã hết sức khinh bỉ.
2.3. Sự nghiệp văn chương
– Nguyễn Du – Đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học dân tộc.
– Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du gồm những tác phẩm được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và đều đạt đến trình độ cổ điển.
+ Các tập thơ chữ Hán: Có 3 tập, gồm 243 bài: Thanh Hiên thi tập; Nam trung thi tập; Bắc hành tạp lục.
+ Các tác phẩm chữ Nôm: Có 2 kiệt tác: Văn tế thập loại chúng sinh và Đoạn trường tân thanh (“Truyện Kiều”).
=> Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du không phải là quá đồ sộ về mặt số lượng, song nó đã kết tinh được những tinh hoa văn hóa thời đại để trở thành đỉnh cao của văn học dân tộc nói riêng và nhân loại nói chung.
1. Nguồn gốc lai lịch và sự sáng tạo của Nguyễn Du
– “Truyện Kiều” được Nguyễn Du viết vào khoảng đầu thế kỉ XIX (1805 – 1809). Nó là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, gồm 3254 câu.
– “Truyện Kiều” có nguồn gốc từ một truyện bên Trung Quốc: Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân – một tác phẩm văn xuôi viết chữ Hán, có kết cấu chương hồi. Sau đó, được Nguyễn Du “hoán cốt đoạt thai”. Lúc đầu truyện có tên là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột).
– Với cảm hứng nhân đạo cao cả và xuất phát từ thực tế cuộc sống, xã hội, con người Việt Nam, Nguyễn Du đã có những sáng tạo độc đáo cho tác phẩm. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức to lớn: viết nên một tác phẩm trữ tình bằng chữ Nôm; sử dụng thể thơ của dân tộc; nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình;…
=> “Truyện Kiều” xứng đáng là đỉnh cao của văn học dân tộc, là tinh hoa văn hóa ánh mãi ngàn đời. Và đúng như giáo sư Đào Duy Anh viết: “Nếu Nguyễn Trãi với “Quốc âm thi tập” là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với “Truyện Kiều” lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta”.
2. Tóm tắt
Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước
Gia đình Vương Viên Ngoại thuộc tầng lớp trung lưu có ba người con: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Thúy Kiều là chị, nàng nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân nhân tiết thanh minh, nàng gặp Kim Trọng – một con người hào hoa, phong nhã. Giữa hai người nhanh chóng nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Sau đó, hai người chủ động thề nguyện đính ước chung thủy với nhau suốt đời.
Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc
Kim Trọng về chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan. Nàng phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình cứu cha và em. Nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn trùm lầu xanh. Đau khổ, Kiều tự vẫn nhưng không thành rồi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nàng bị Sở Khanh lừa, bị bắt, bị đánh đập và phải chịu tiếp khách làng chơi. Nàng gặp Thúc Sinh, một người buôn bán giàu có, chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư bày mưu bắt về đánh đập, bắt làm con ở để hầu đàn, hầu rượu. Kiều lại bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ nơi cửa Phật. Song sư Giác Duyên lại vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người, để lần thứ hai Kiều lại rơi vào lầu xanh. Lần này Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng trí dũng song toàn. Nhờ uy Từ Hải, Kiều đã báo được ân, trả được oán. Chẳng bao lâu, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến mà chết. Kiều bị làm nhục, bị ép gả cho Thổ Quan. Quá tủi cực, Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường nhưng được Giác Duyên cứu sống và lần thứ hai nàng nương nhờ cửa Phật.
Phần thứ ba: Đoàn tụ
Sau khi đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công ròng rã đi tìm Kiều. Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn giải oan cho nàng. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua mà Kim, Kiều tìm được nhau và đoàn tụ với gia đình.
3. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
3.1. Giá trị nội dung
a. Giá trị hiện thực
– Truyện Kiều là bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội bất công, tàn bạo. Nơi mà các tầng lớp thống trị và các thế lực hắc ám sẵn sàng chà đạp lên quyền sống của con người.
+ Đó là một xã hội đảo điên, nơi mà đồng tiền lên ngôi và có giá trị vạn năng. Trong tác phẩm, đã 17 lần Nguyễn Du tập trung để nói về sự hung hiểm, hai mặt của đồng tiền, trong đó có thể kể đến câu: “Trong tay đã có đồng tiền/ Giàu lòng đổi trắng thay đen khó gì?”…
+ Đó là xã hội mà bọn quan lại ngang ngược, tham lam, lật lọng, là nguồn gốc cho mọi sự xấu xa, bất công, bỉ ổi: Tổng đốc Đại thần Hồ Tôn Hiến, đại diện cho triều đình, nhưng lại hèn hạ, phản trắc, lừa giết một người đã quy hàng (Từ Hải).
+ Đó là một xã hội không có công lí, pháp luật hay sự công bằng. Nó dễ dàng bị đồng tiền mua chuộc, dễ dàng đổi trắng thay đen và tiếp tay cho mọi sự xấu xa hoành hành: Gia đình Kiều bị đổ oan, bị bắt bớ, tra tấn nhưng công lí chỉ xuất hiện khi “Có ba trăm lạng việc này mới xong”.
– “Truyện Kiều” còn là bức tranh hiện thực về số phận những con người bị chà đạp, áp bức, đau khổ, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ thông qua nhân vật Thúy Kiều.
+ Bị tước đoạt những quyền cơ bản nhất của con người: Quyền được yêu, quyền được sống, quyền được hưởng hạnh phúc gia đình.
+ Nhân phẩm bị chà đạp một cách thô bạo và tàn nhẫn: Kiều bị coi như một món hàng, có thể mua đi bán lại và bị đánh đập tàn nhẫn: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” là sự tổng kết đau đớn về cuộc đời Kiều sau 15 năm đoạn trường.
b. Giá trị nhân đạo
Đây là giá trị cơ bản của tác phẩm, được thể hiện trên các phương diện sau:
=> “Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người.
+ “Truyện Kiều” thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, hồn nhiên, trong sáng, thủy chung trong một xã hội mà quan niệm về tình yêu và hạnh phúc gia đình còn khắc nghiệt: Kim Trọng và Thúy Kiều đã dám bước qua bức tường phong kiến kiên cố để tiến đến một tình yêu tự do: họ gặp gỡ và chủ động thề nguyền, đính ước.
+ “Truyện Kiều” thể hiện khát vọng về một xã hội công bằng, dân chủ, tự do không còn bất công, tù túng, ngột ngạt: Người anh hùng Từ Hải chính là đại diện cho khát vọng tự do, công lí đã dám đứng lên để chống lại cả một xã hội cũ kỹ, thối nát, tàn bạo.
+ “Truyện Kiều” ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người: Vẻ đẹp của tài sắc, trí thông minh, sự chung thủy, lòng hiếu thảo, đức vị tha… mà Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.
=> “Truyện Kiều” là tiếng nói xót thương, cảm thông với nỗi đau khổ của con người mà đặc biệt là người phụ nữ: Trước hết là ông dành cho Thúy Kiều bằng cái lòng cảm thương sâu sắc nhất; sau đó là ông dành cho tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến niềm cảm thương lớn lao: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
– “Truyện Kiều” là tiếng nói tố cáo, lên án chế độ phong kiến, các thế lực xấu xa, tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.
=> “Truyện Kiều” đã truyền tải được những tư tưởng nhân đạo sâu sắc, tiến bộ và giàu tính chiến đấu để xứng đáng trở thành kiệt tác ngàn đời.
3.2. Giá trị nghệ thuật
“Truyện Kiều” là sự kết tinh của những thành tựu văn học dân tộc trên các phương diện:
a. Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tả cảnh.
– Nghệ thuật kể chuyện đa dạng: Trực tiếp (lời nhân vật), gián tiếp (lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả nhưng mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật).
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng với cách xây dựng nhân vật điển hình, có tính cách riêng độc đáo, sinh động.
+ Miêu tả ngoại hình nhân vật bằng thủ pháp nghệ thuật:
++ Nhân vật chính diện xây dựng theo lối lí tưởng hóa bằng thủ pháp ước lệ: Miêu tả nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du viết: “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”; còn nhân vật Từ Hải: “Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
++ Nhân vật phản diện được xây dựng theo lối hiện thực bằng biện pháp cụ thể: Miêu tả nhân vật Tú Bà, Nguyễn Du viết: “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?”.
+ Miêu tả ngoại hình để tái hiện lên tính cách nhân vật:
++ Ngoại hình Thúy Vân: “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” gợi lên sự trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang, quý phái.
++ Ngoại hình Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” gợi một tâm hồn qua đôi mắt đa sầu, đa cảm.
+ Miêu tả ngoại hình để tiên đoán về số phận nhân vật:
+ Miêu tả nhân vật qua diễn biến nội tâm: Tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Kiều trước lầu Ngưng Bích: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”…
– Nghệ thuật tả cảnh độc đáo
+ Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên:
++ Tả cảnh thiên nhiên bằng các chi tiết tạo hình: “Ngày xuân con én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
++ Tả cảnh thiên nhiên bằng cách điểm nhấn: Chỉ tả một vài chi tiết đặc sắc nhưng vẽ lên một khung cảnh tuyệt đẹp: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
++ Tả cảnh thiên nhiên trong những thời gian và không gian khác nhau: “Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về”.
+ Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
++ Mượn và tả cảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng, cảm xúc của nhân vật: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
++ Khung cảnh thiên nhiên được tả qua tâm trạng của nhân vật: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
b. Nghệ thuật ngôn từ và thể loại đạt đến đỉnh cao
– Ngôn từ “Truyện Kiều” là ngôn ngữ tinh hoa của dân tộc nên trong sáng, mĩ lệ và dồi dào sắc thái biểu cảm.
– Ngôn ngữ “Truyện Kiều” không chỉ có chức năng biểu đạt (phản ánh), biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).
– Ngôn ngữ “Truyện Kiều” kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, tạo thành thứ ngôn ngữ thơ ca vừa hàm súc vừa trang nhã, giản dị.
– Sử dụng thể thơ lục bát – thể thơ của dân tộc Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao.
=> “Truyện Kiều” xứng đáng trở thành kiệt tác số một, là “quốc hồn quốc túy” của nền văn học dân tộc.
III. Tổng Kết
– Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc Việt Nam.
– Ngô gia văn phái: Một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ). Trong đó có hai tác giả chính là:
+ Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống.
+ Ngô Thì Du (1772 – 1840) làm quan dưới triều Nguyễn.
– Họ là những nhà nho mang nặng tư tưởng trung quân, ái quốc. Ngô Thì Chí từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai. Ông cũng chính là người dâng “Trung hưng sách” bàn kế để khôi phục nhà Lê và chống lại nhà Tây Sơn.
– Họ là những cây bút trung thực và có tư tưởng tiến bộ. Họ đã phản ánh được một cách chân thực, sống động những sự kiện lịch sử dân tộc trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX.
2. Tác phẩm
a. Thể loại
– Hoàng Lê nhất thống chí được viết theo thể chí – một thể văn ghi chép sự vật, sự việc. Một thể loại văn vừa có tính văn học, vừa có tính lịch sử lại vừa mang tính triết lí (hiện tượng văn – sử – triết bất phân).
– Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, ghi chép về sự thống nhất đất nước của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh.
– Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nối tiếp nhau, từ giai đoạn cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn và do một số tác giả kế tục nhau viết.
– Hoàng Lê nhất thống chí được viết bởi hai tác giả chính: Ngô Thì Chí viết bảy hồi đầu, Ngô Thì Du viết bảy hồi tiếp sau, còn ba hồi cuối có thể do một người khác viết vào khoảng cuối hoặc đầu triều Nguyễn.
c. Vị trí đoạn trích
– Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc hồi thứ mười bốn của tác phẩm, ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung cùng nghĩa quân Tây Sơn. Đồng thời, miêu tả sự thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận của bè lũ vua tôi hại nước, hại dân Lê Chiêu Thống.
d. Tóm tắt văn bản Hồi 14 – Hoàng Lê nhất thống chí
Tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở lui quân về núi Tam Điệp. Ngày 25 tháng Chạp năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua (hiệu là Quang Trung) ở Phú Xuân, tự mình đốc suất lại binh để chuẩn bị tiến quân ra Bắc diệt Thanh.
Dọc đường vua Quang Trung cho tuyển thêm lính, mở cuộc duyệt binh lớn và chia quân thành các ngả để tiến ra Bắc. Ra chỉ dụ tướng lĩnh, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp, hẹn đến ngày mồng 7 Tết thắng lợi sẽ mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long.
Đội quân của Quang Trung đánh đến đâu thắng đến đó khiến quân Thanh đại bại. Rạng sáng ngày mồng 3 Tết, nghĩa quân đã tiến vào Thăng Long, bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, dùng mưu để quân giặc đầu hàng và hạ đồn một cách dễ dàng.
Ngày mồng 5 Tết, nghĩa quân tiến vào công đồn Ngọc Hồi. Quân giặc chống trả quyết liệt, cuối cùng phải chịu đầu hàng, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê Chiêu Thống cùng gia quyến trốn chạy theo.
e. Bố cục: Ba phần
– Phần một: Từ đầu đến “năm Mậu thân 1788”: Tin quân Thanh đã chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, thân chinh cầm quân dẹp giặc.
– Phần hai: Tiế theo đến “kéo vào thành”: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn.
– Phần ba: Còn lại: Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Hình tượng người anh hùng Quang Trung
a. Nhà lãnh đạo quyết đoán, mạnh mẽ và bản lĩnh phi thường
– Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn hành động một cách mạnh mẽ, nhanh gọn và rất quyết đoán: Nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long, không hề nao núng mà “định thân chinh cầm quân đi ngay”.
– Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc lớn:
+ Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung để yên lòng dân rồi thân chinh cầm quân ra Bắc.
+ Trên đường tiến quân ra Bắc, tranh thủ gặp Nguyễn Thiếp để hỏi về kế sách, đặc biệt là thu hút sự ủng hộ của tầng lớp sĩ phu.
+ Tuyển mộ được hơn một vạn tinh binh và mở cuộc duyệt binh lớn.
+ Ra phủ dụ tướng sĩ: Vạch trần âm mưu xâm lược của nhà Thanh, cho thấy bộ mặt tàn bạo của kẻ thù; giữ nghiêm kỉ luật, khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính.
=> Tính cách mạnh mẽ, quyết đoán, đầy bản lĩnh là đặc điểm của những bậc quân vương tài chí. Và với tính cách ấy, Nguyễn Huệ xứng đáng được nhân dân tôn thờ và gửi gắm niềm tin để trở thành linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn.
b. Bậc minh vương có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén
– Là một bậc quân vương, thống lĩnh cả vạn tinh binh, vua Quang Trung đã tỏ ra được là một người sáng suốt, nhạy bén trong việc nhận định tình hình thế cuộc và tương quan lực lượng giữa ta và địch. Điều đó được thể hiện trong lời phủ dụ với quân lính khi ở Nghệ An:
+ Vua Quang Trung đã khẳng định chủ quyền dân tộc: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng… Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta”.
+ Tiếp đó, ông lên án hành động ngang ngược, phi nghĩa của giặc trái với đạo trời của quân Thanh: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải”.
+ Để khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới quyền, ông đã nhắc lại truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của các bậc minh vương trong lịch sử: “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ…”
+ Từ những gương trên, ông kêu gọi quân lính hãy “đồng tâm hiệp lực”.
+ Cuối cùng, ông ra kỉ luật nghiêm khắc theo phép nhà binh: “Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.
=> Lời phủ dụ đã như một bài hịch ngắn gọn mà súc tích, sâu sắc để kích thích lòng yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc.
– Đó còn là một bậc minh quân sáng suốt, nhạy bén trong việc dùng người và xét đoán bề tôi:
+ Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Lân và Sở, ta thấy: ông rất hiểu tình thế buộc phải rút quân để bảo toàn lực lượng của hai vị tướng này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng”. Nhưng ông hiểu lòng họ, sức ít không thể địch nổi quân hùng tướng hổ nhà Thanh.
+ Đối với Ngô Thì Nhậm, ông hiểu tường tận năng lực, khả năng “đa mưu túc trí” của vị quân sĩ này. Việc Lân và Sở rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao sau này.
=> Ông là một bậc minh quân, rất hiểu tướng sĩ, khen chê đúng người đúng việc và ân uy rạch ròi.
c. Bậc quân vương có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng
– Quang Trung tự tin vào tài cầm quân của mình, tin vào các tướng lĩnh và tin ở chính nghĩa của dân tộc. Bởi vậy, mới khởi binh, ông đã chắc thắng và dự kiến cả ngày chiến thắng: “Phương lược tiến đánh đã tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh…”
– Đang lo việc đánh giặc, Quang Trung đã tính sẵn cả kế hoạch sau chiến thắng (kế hoạch cho mười năm sau), tìm cách ngoại giao với giặc để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”,…
=> Chính tinh thần, ý chí quyết thắng hừng hực của vua Quang Trung đã lan tỏa đến từng quân sĩ để kích thích ý chí quật cường trong họ.
d. Bậc kì tài về quân sự – có tài thao lược hơn người
– Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, đốc suất quân sĩ, tổ chức chiến dịch làm nên cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch sử. Cuộc hành quân thần tốc đến nay vẫn còn khiến chúng ta khâm phục:
+ Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế).
+ Vượt khoảng 350 km đường đèo, núi, đến ngày 29 đã tới Nghệ An.
+ Ngay hôm sau, vượt khoảng 150 km, tiến ra Tam Điệp.
+ Đêm 30 tháng Chạp “lập tức lên đường” tiến thẳng Thăng Long. Vừa hành quân vừa đánh giặc và giữ bí mật đến bất ngờ.
– Hành quân xa liên tục và gấp gáp, lại là đi bộ hẳn sẽ mệt mỏi, rã rời, song quân đội của Quang Trung vẫn chỉnh tề. Mặc dù quân đội đó không phải toàn lính thiện chiến nhưng dưới sự chỉ huy tài tình của vua Quang Trung, tất cả đã trở thành quân đội dũng mãnh, “tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui ở dưới đất lên”, đánh đâu thắng đó.
+ Ở trận Ngọc Hồi, cho quân làm những tấm ván ghép, bên ngoài phủ rơm dấp nước nên binh lính tiến sát đồn mà không bị đạn hỏa công.
=> Quang Trung là sức mạnh, là nội lực của nghĩa quân Tây Sơn, đại diện cho vẻ đẹp của một dân tộc anh hùng.
e. Một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến đấu
– Vua Quang Trung là một tổng chỉ huy thực sự của chiến dịch. Ông hoạch định đường lối chiến lược, chiến thuật, tự mình thống lĩnh một mũi tiên phong, xông pha nơi chiến trận,…
– Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung, nghĩa quân Tây Sơn đã chiến thắng áp đảo quân thù.
– Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi, trực tiếp chỉ huy trận đánh, dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi bật và là linh hồn của cuộc tiến công vĩ đại của dân tộc.
=> Hình ảnh vua anh hùng Quang Trung xông pha nơi chiến trận với tư thế dũng mãnh, “tả đột hữu xông”, oai phong lẫm liệt xứng đáng là biểu tượng đẹp nhất về người anh hùng trong văn học trung đại.
2. Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của bọn vua tôi phản dân hại nước
a. Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh
– Đối lập với hình ảnh của nghĩa quân Tây Sơn:
+ Tướng Tôn Sĩ Nghị: “sợ mất mật, ngựa không còn kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy”; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử.
+ Quân “đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều… đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”.
– Cả một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người diễu võ dương oai giờ đây chỉ còn biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.
– Nguyên nhân của sự thất bại:
+ Tướng lĩnh thìkiêu căng, chủ quan, bỏ ngoài tai những lời cảnh báo của vua tôi Lê Chiêu Thống, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc trên chiến thắng.
+ Do sự bất tài, tham sống sợ chết, nên chưa đánh đã chạy.
+ Lính tráng thì ô hợp, buông lỏng kỷ cương: Rời doanh trại để đi kiếm củi và buôn bán ở chợ.
b. Số phận thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân
– Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà mù quáng “cõng rắn cắn gà nhà” và đặt vận mệnh của dân tộc vào tay kẻ thù xâm lược.
– Họ không còn tư cách của bậc quân vương mà phải chịu số phận nhục nhã của kẻ cầu cạnh, van xin và kết cục chịu chung số phận thảm hại của kẻ vong quốc: Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín chạy bán sống, bán chết, “luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều mệt lử”, chỉ biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.
=> Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi 14 đã miêu tả sự thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân Lê Chiêu Thống bằng một giọng văn chậm chạp, có khi chững lại khi miêu tả những giọt nước mắt để gợi thái độ ngậm ngùi của người cầm bút.
III. Tổng kết
1. Nội dung
– Hoàng Lê nhất thống chí– hồi mười bốn – “Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài” là bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ -vị vua văn võ song toàn. Đồng thời, cũng thấy được tình cảnh thất bại ê chề, khốn đốn, nhục nhã của bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống.
2. Nghệ thuật
– Hoàng Lê nhất thống chílựa chọn trình tự kể theo diễn biến của các sự kiện lịch sử.
– Khắc họa nhân vật lịch sử với ngôn ngữ kể, tả chân thực, sinh động.
– Giọng điệu trần thuật thể hiện thái độ của tác giả với vương triều Lê, với chiến thắng của nhân dân, dân tộc với bọn cướp nước.
– Quê ở huyện Trường Tân , nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
– Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.
– Ông sống ở thế kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.
– Về con người:
+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là người học rộng tài cao, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà.
+ Là một “kẻ sĩ” có nhân cách cao thượng, nên trước những mục nát của chế độ đương triều, bất mãn với thời cuộc, ông chỉ làm quan có một năm rồi xin lui về sống ẩn dật, viết sách và phụng dưỡng mẹ già.
+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là một người luôn đau đáu đến vận mệnh của xã tắc, sơn hà.
2. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
a. Thể loại – nguồn gốc xuất xứ
– Truyện truyền kì:
+ Là thể loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành từ thời Đường.
+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cốt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo,…
– Truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ:
+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, thời kì xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ.
+ “Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố kì ảo; đề tài phong phú.
+ Truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng “thiên cổ tùy bút” (tức áng văn hay ngàn đời).
– Chuyện người con gái Nam Xương:
+ Là thiên truyện thứ 16 trong số 20 thiên truyện của “Truyền kì mạn lục”.
+ Truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp lại một số tình tiết và thêm vào các yếu tố kì ảo.
+ Chuyện người con gái Nam Xương được kể theo ngôi thứ 3.
b. Phương thức biểu đạt: Tự sự có kết hợp yếu tố biểu cảm.
c. Tóm tắt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Nàng Vũ Nương, người phụ nữ đẹp người, đẹp nết được Trương Sinh – một người ít học lại có tính đa nghi, cưới về làm vợ. Gia đình đang yên ấm, hạnh phúc thì chàng Trương phải rời nhà đi lính. Ở nhà, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng hay đùa với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói là cha Đản. Mẹ Trương Sinh vì thương nhớ con mà sinh bệnh, nàng hết lòng chăm sóc, phụng dưỡng, song ít lâu sau bà qua đời.
Khi Trương Sinh trở về, nghe theo lời con trẻ nghi ngờ vợ thất tiết. Vũ Nương một mực kêu oan, song Trương Sinh không nghe mà đánh mắng, đuổi vợ đi. Vũ Nương không tự minh oan được bèn trẫm mình xuống sông tự vẫn. Một đêm thấy bóng cha trên tường, bé Đản gọi cha. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ nhưng đã muộn.
Vũ Nương không chết, nàng được Linh Phi cứu giúp. Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang dưới thủy cung – người cùng làng bị chết đuối, cũng được Linh Phi cứu. Khi Phan Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc thoa và nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, lập đàn giải oan cho nàng ở bên sông ấy. Vũ Nương trở về ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ vài lời tạ từ rồi biến mất.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Nhân vật Vũ Nương
– Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, “tính tình thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.
– Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”; “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước “tư dung” – vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.
=> Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc họa với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến. Song để có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:
a. Trong mối quan hệ với chồng, nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.
* Trong cuộc sống vợ chồng bình thường
– Nàng hiểu chồng “có tính đa nghi”, “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa.
=> Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, nết na, khôn khéo, hiểu chồng. Đồng thời nó đã hé lộ sự mâu thuẫn trong tính cách giữa hai người và mang đầy tính dự báo.
* Khi tiễn chồng đi lính
– Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:
+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường những thứ vinh hoa phù phiếm: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xinngày về mang theo được hai chữ bình yên”.
+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng ở nơi chiến trận: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao”.
+ Nàng bộc lộ sự khắc khoải, xa nhớ của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoan, lại thổn thức tâm tình”.
=> Đó là những lời nói ân tình, đằm thắm, đầy ắp những yêu thương. Qua đó, chúng ta thấy Vũ Nương thực sự là một người vợ dịu dàng, hết mực thương chồng, thương con và thật đáng trân trọng.
* Khi xa chồng
– Vũ Nương chứng minh được, nàng là người vợthủy chung, yêu thương chồng hết mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “thổn thức tâm tình, buồn thương da diết”.
– Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với bóng: Dỗ con, nàng chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng đó là cha Đản.
– Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần sau này của nàng với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
=> Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắt, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong mọi thời loạn lạc, chiến tranh.
* Khi bị chồng nghi oan
– Nàng đã hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch của mình:
+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.
+ Tiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, vẹn nguyên chờ chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.
+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.
=> Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những lời nói tha thiết đó, nó còn cho thấy thái độ trân trọng chồng và gia đình nhà chồng của nàng.
– Không còn hi vọng, nàng nói lên một cách đau đớn và thất vọng:
+ Hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khao khát và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.
+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”.
+ Đến nỗi đau chờ chồng đến hóa đá của “cổ nhân” nàng cũng không có được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
=> Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cở sở tồn tại của người vợ trẻ giờ đã không ý nghĩa.
– Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng nghĩa với việc bị cự tuyệt quyền tồn tại của nàng:
+ Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để dãi tỏ tấm lòng trong trắng mà minh oan cho mình: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạc gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ”.
+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.
=> Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng thực chất là một sự bức tử, nhưng cũng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hy sinh ấy, phẩm giá còn cao hơn sự sống.
* Những năm tháng sống dưới thủy cung
– Sống ở chốn làn mây, cung nước sung sướng nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ: Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng. Nghe ông kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót thương.
– Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.
– Nàng là người trọng tình, trọng nghĩa: Dù rất thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ song vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.
=> Với vai trò là một người vợ Vũ Nương là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị tha.
b. Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng là một người con dâu hiếu thảo.
– Vũ Nương đã thay Trương Sinh làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia đình nhà chồng:
+ Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, phàm việc ma chay tế lễ thì lo liệu chu đáo như đối với cha mẹ đẻ mình.
+ Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định tấm lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
=> “Đói lòng ăn khế ăn sung/ Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi” là một trong những câu ca dao nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến xưa. Song lời cảm tạ, động viên của bà mẹ đã cho thấy Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo. Đó là một sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất.
c. Trong mối quan hệ với con, nàng là một người mẹ yêu thương con hết mực.
– Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con và nuôi dạy con khôn lớn.
– Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò của một người cha: Hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm.
– Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về mặt vật chất, mà con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo đó là cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.
=> Vũ Nương đã không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng, trớ trêu thay, hạnh phúc, sự ngọt ngào đã không mỉm cười với nàng.
2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương
a. Nguyên nhân trực tiếp
– Chiếc bóng trên vách khiến bé Đản ngộ nhận đó là cha mình. Khi người cha thật trở về thì không chịu nhận mà ngây thơ, vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan. Những lời nói thật của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông vốn luôn ấp ủ trong lòng Trương Sinh.
b. Nguyên nhân gián tiếp
– Do cuộc hôn nhân không bình đẳng và do tính hay ghen, gia trưởng của Trương Sinh: Vũ Nương là “con kẻ khó” được Trương Sinh đem trăm lạng vàng để cưới về. Sự đối lập giàu nghèo cộng với tính cách “đa nghi” của Trương Sinh đã sản sinh ra sự hồ đồ, độc đoán, gia trưởng để thô bạo với Vũ Nương. Rõ ràng, đối với vợ Trương Sinh đã thiếu cả lòng tin và tình thương.
– Do lễ giáo phong kiến hà khắc: Chế độ nam quyền đã dung túng, cổ vũ cho thói độc đoán, gia trưởng của người đàn ông, cho phép họ phá tan hạnh phúc mong manh của người phụ nữ.
– Vũ Nương không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền mà nàng còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến: Trương Sinh phải đi lính, thời gian xa cách đã làm ngọn lửa ghen tuông sẵn âm ỉ nay lại được thổi bùng lên, phá tan hạnh phúc gia đình.
3. Những chi tiết đặc sắc
a. Những chi tiết kì ảo
– Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến xin tha mạng, sáng hôm sau ông được người phường chài đem biếu con rùa mai xanh thì liền thả.
– Chi tiết kì ảo thứ hai: Phan Lang chết đuối vì có công nên được Linh Phi cứu sống, gặp Vũ Nương, rồi được rẽ nước đưa về dương thế.
– Chi tiết kì ảo thứ ba: Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng nói vọng vài lời từ biệt rồi biến mất.
=> Chi tiết kì ảo là sự sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ trong tác phẩm, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” không có.
b. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện
– Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì.
– Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dẫn và kích thích trí tưởng tượng của người đọc.
– Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm.
– Tạo nên một kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:
+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ.
+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách của Vũ Nương: Dù ở một thế giới khác, nhưng nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được minh oan.
– Tuy nhiên, những chi tiết kì ảo đó chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi kịch của thiên truyện: Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ là một sự hiển linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “loang loáng mờ nhạt” trên sông rồi dần biến đi mất, tức là vẫn còn xa cách, vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Vũ Nương không thể trở về, cái lí mà nàng đưa ra là vì ân đức của Linh Phi nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu thuộc về những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi tiết Phan Lang được rẽ nước trở về nhân gian còn Vũ Nương thì không thể là một minh chứng đanh thép cho điều đó.
4. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
a. Giá trị hiện thực Chuyện người con gái Nam Xương
– Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.
– Lên án hiện thực xã hội phong kiến với đầy rẫy những bất công, vô lí. Xã hội ấy đã dung túng chế độ nam quyền hà khắc, trọng nam khinh nữ chà đạp lên số phận người phụ nữ. Một xã hội mà người phụ nữ không thể đứng lên để bảo vệ giá trị nhân phẩm của mình ngoài cái chết.
– Phản ánh xã hội phong kiến đầy mâu thuẫn đã gây ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa kéo dài liên miên, làm cho đời sống người dân càng rơi vào bi kịch, bế tắc.
b. Giá trị nhân đạo Chuyện người con gái Nam Xương
– Khám phá, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.
– Thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp: Đề cao giáo trị nhân văn “ở hiền thì gặp lành” và gửi gắm những ước mơ tốt đẹp ngàn đời của nhân dân.
– Thể hiện sự thấu hiểu, xót xa và niềm cảm thương sâu sắc với số phận đầy ngang trái, thiệt thòi, bất hạnh của Vũ Nương.
– Lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến, chế độ nam quyền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Đó cũng chính là giá trị nhân văn muôn thuở của loài người.
– Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Qua đó khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất quý báu của họ.
– Tác phẩm còn mang một thông điệp vượt thời gian: Tất cả mọi người đều có quyền sống và quyền hạnh phúc. Đặc biệt là những người phụ nữ, họ có quyền bình đẳng để phát huy tài năng và phẩm chất của mình. Đó cũng chính là những biểu hiện của một xã hội hiện đại, văn minh.
2. Nghệ thuật
– Chuyện người con gái Nam Xương xây dựng tình huống truyện độc đáo, xoay quanh sự ngộ nhận, hiểu lầm lời nói của bé Đản. Chi tiết cái bóng trở thành điểm mấu chốt của tình huống khiến cốt truyện được thắt nút, mở nút, thay đổi sau khi nó xuất hiện.
– Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: Dẫn dắt tình huống hợp lí; xây dựng lời thoại của nhân vật đan xen với lời kể của tác giả. Đặc biệt là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và kì ảo.
– Có sự kết hợp hài hòa các phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm.
IV. Một số dạng đề tham khảo
Câu 1. Nguyên nhân nào dẫn tới cái chết của nhân vật Vũ Nương.
Câu 2. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Câu 3. Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ.
Câu 4. Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Câu 5. Về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của họ.
Theo anh (chị), ý kiến trên thể hiện như thế nào qua nhân vật Vũ Nương?
Việt Nam ta nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh được hình thành dưới bàn tay của thiên nhiên, tạo hóa: vịnh Hạ Long, Ngũ Hành Sơn,… Tiêu biểu trong số đó phải kể đến hệ thống hang động đẹp, kỳ vĩ của vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng – di sản thiên nhiên thế giới, lập được nhiều kỷ lục thế giới như hang Sơn Đoòng, động Vòm,… Trong đó, động Phong Nha là hang động đẹp nhất, rộng nhất thế giới, được đánh giá là “kỳ quan đệ nhất động”. Và bây giờ chúng ta hãy cùng Học Ngữ văn đi tìm hiểu tác phẩm:
I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả
– Trần Hoàng sinh 02/6/1955 tại Quảng Ngãi.
– Từ năm 1979 – 2009, là giảng viên Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
– Từ năm 2010, ông công tác tại Phòng Khoa học công nghệ & Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ: Động Phong Nha được trích trong cuốn Sổ tay địa danh du lịch các tỉnh Trung Trung Bộ của Trần Hoàng.
b. Nội dung: Bài văn giới thiệu và miêu tả về vẻ đẹp của động Phong Nha, “kỳ quan đệ nhất động” của Việt Nam.
c. Bố cục: 3 phần.
Phần 1: (Từ đầu… “nằm rải rác”): giới thiệu vị trí địa lí và đường vào động Phong Nha.
Phần 2: (Tiếp theo đến… “nơi cảnh chùa đất Bụt”): Cảnh tượng động Phong Nha.
Phần 3: (Còn lại): giá trị của động Phong Nha.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Giới thiệu về động Phong Nha
– Vị trí: Động Phong Nha thuộc khối núi đá với Kẻ Bàng ở Tây Quảng Bình. Được gọi là đệ nhất kì quan.
– Đường vào động: có hai con đường
+ Đường thủy: Ngược dòng sông Gianh rồi đi vào sông Son là đến nơi.
+ Đường bộ: Theo đường số 2 đến bến sông Son rồi đi thuyền khoảng ba mươi phút là đến nơi.
=> Hai con đường vào động đều có phong cảnh tươi đẹp, hữu tình và nên thơ.
2. Toàn cảnh động Phong Nha
* Cảnh bên trong động Phong Nha:
– Động khô: cao 200 mét; Xưa là dòng sông ngầm còn nay là “những vòm đá trắng văn nhũ và vô số cột đá xanh màu ngọc bích óng ánh.”
– Động nước: Có một con sông ngầm dài chảy suốt ngày đêm dưới núi đá vôi nối Kẻ Bàng và khu rừng nguyên sinh; Sông sâu, nước rất trong. Động chính có 14 buồng thông nhau được cấu tạo bởi: Các khối đá nhiều hình khối, màu sắc; Thạch nhũ huyền ảo, lóng lánh như kim cương, phong lan xanh biếc; Bãi cát, bãi đá rộng và đẹp; Khi vào động nước phải mang theo đèn, đuốc.
=> Miêu tả theo trình tự không gian, từ ngoài vào trong, từ bao quát đến chi tiết. Lối miêu tả của tác giả giúp người đọc hình dung ra một động Phong Nha đa dạng, phong phú, sinh động và hấp dẫn.
* Cảnh bên ngoài động Phong Nha:
– Vừa có nét hoang sơ, bí hiểm; lại vừa rất thanh thoát và giàu chất thơ.
– Tiếng nói, tiếng nước như tiếng đàn, tiếng chuông nơi cảnh chùa, đất Bụt.
– Như lạc vào thế giới tiên cảnh.
=> Bằng biện pháp liệt kê, động Phong Nha hiện lên có hình khối, màu sắc, âm thanh mang vẻ đẹp lộng lẫy và kì ảo, vừa hoang sơ bí hiểm, vừa thanh thoát và giàu chất thơ.
3. Giá trị của động Phong Nha
– Là hang động dài nhất, đẹp nhất thế giới với bảy cái nhất: hang động dài nhất; cửa hang cao và rộng nhất; bãi cát, bãi đá rộng và đẹp nhất; hồ ngầm đẹp nhất; hang khô rộng và đẹp nhất; thạch nhũ tráng lệ và kì ảo nhất; sông ngầm dài nhất.
– Động Phong Nha được thiên nhiên ban tặng rất nhiều giá trị:
+ Giá trị về mặt văn hóa: là di sản văn hóa thế giới.
+ Giá trị về mặt kinh tế: Du lịch, thám hiểm và nghiên cứu khoa học.
=> Động Phong Nha là niềm tự hào, chúng ta phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn, đầu tư để phát triển kinh tế đất nước bền vững.
III. Tổng kết
1. Nội dung:
Động Phong Nha ở miền tây tỉnh Quảng Bình được xem là kì quan thứ nhất (“Đệ nhất kì quan”). Động Phong Nha đã và đang thu hút khách tham quan trong và ngoài nước. Chúng ta tự hào vì đất nước có động Phong Nha cũng như những thắng cảnh khác.
2. Nghệ thuật:
Miêu tả gợi hình, gợi cảm, số liệu khoa học, chính xác,…
– Lưu Quang Vũ là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam.
– Ông sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở phường Hải Châu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ. Khi hòa bình lập lại năm 1954, gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ và cùng trung du Bắc Bộ đã in dấu trong các sáng tác của ông sau này.
– Từ 1965 đến 1970 ông nhập ngũ, phụ vụ trong quân chủng Phòng không – không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ.
– Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích,…
– Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.
– Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ.
– Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng, Nàng Sita, v.v. Vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17” được trao tặng Huy chương vàng Hội diễn sân khấu. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.
2. Tác phẩm
a. Tóm tắt
Trương Ba – người làm vườn chất phác, hiền lành, rất mực yêu quý vợ con và cháu gái. Ông nổi tiếng là người chơi cờ giỏi và có lối sống thanh cao. Vì sự tắc trách của Nam Tào, Trương Ba đang khỏe mạnh bỗng chết một cách đột ngột. Tiên Đế Thích vì muốn có người đánh cờ với mình và muốn sửa sai cho Nam Tào nên hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác một anh hàng thịt mới chết. Hồn Trương Ba đau khổ đấu tranh với những ham muốn bản năng của thân xác hàng thịt. Sau một thời gian, chính hồn Trương Ba cũng phần nào bị tha hóa, gia đình Trương Ba trở nên ly tán, đau buồn. Trương Ba quyết định thắp nhang gọi Đế Thích lên để quyết định rời khỏi thân xác anh hàng thịt. Đế Thích tìm mọi cách khuyên ngăn và đưa ra giải pháp khác hấp dẫn hơn như cho Trương Ba nhập vào xác cu Tị đang hấp hối. Trương Ba xin cho cu Tị được sống và kiên quyết chọn cái chết và không nhập vào xác ai nữa bởi ông không muốn “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”.
b. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
– Lưu Quang Vũ viết vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt năm 1981, nhưng đế năm 1984 thì mới ra mắt công chúng. Vở kịch dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những thay đổi cơ bản.
– Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
c. Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến “Vợ Trương Ba bước vào”): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
– Phần 2 (tiếp đó đến “Không cần!”): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình
– Phần 3 (còn lại): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba, Đế Thích và quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba
II. Trọng tâm kiến thức
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện đại.
– Trong vở kịch này, Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối thoại giữa hồn và xác; đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác (hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng.
1. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
– Qua đối thoại, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa.
– Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận. Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại và suýt nữa thì…” Đó là cảm giác xao xuyến trước những món ăn mà trước đây hồn cho là phàm. Đó là cái lần ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi,… tất cả đều là sự thật.
– Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.
=> Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận.
2. Cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân
– Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân.
+ Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà đi đâu cũng được… còn hơn là thế này. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa.
+ Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có bàn tay giết lợn, bàn chân “to bè như cái xẻng đã làm gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!.
+ Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình như sắp tan hoang ra cả khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khắc dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…
=> Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng cũng không khổ bằng bây giờ.
– Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày bà tự đánh mất mình? Chẳng còn cách nào khác! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!
=> Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
3. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích
– Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết.
– Hai lời đối thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
– Ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại:
+ Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.
+ Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi kkhoong được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
– Quyết định dứt khoát xin Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.
III. Tổng kết
1. Giá trị nội dung
Qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, của chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý