Home Blog Page 3

Tìm hiểu văn bản: Tương tư – Nguyễn Bính

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử – Cuộc đời

– Nguyễn Bính (1918 – 1966), tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính.

– Quê quán: Làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, Vụ Bản, Nam Định.

– Gia đình: nhà Nho nghèo, mồ côi cha mẹ sớm.

– 1945 – 1954: tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ.

– 1954 tập kết ra Bắc, tham gia công tác văn nghệ và làm báo.

– Mất đột ngột 20/01/1966.

– Nguyễn Bính là một người thông minh, nhạy cảm với thời đại đầy biến động, luôn muốn bảo tồn và duy trì những giá trị truyền thống của dân tộc.

b. Sự nghiệp văn học

* Tác phẩm chính

– Ông làm thơ từ rất sớm (năm 13 tuổi), sáng tác nhiều thể loại (thơ, truyện thơ, chèo…).

– Các tác phẩm chính: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Mười hai bến nước (1942), Truyện thơ Cây đàn Tỳ bà (1944), Gửi người vợ miền Nam (1955)…

* Phong cách thơ

Nguyễn Bính là nhà thơ có hồn thơ đậm chất quê:

* Nội dung:

– Nhà thơ nhạy cảm với thời đại đầy biến động, đặc biệt là sự xáo trộn của văn chương, ông thể hiện sâu sắc nỗi day dứt không yên của tâm hồn thiết tha với những giá trị cổ truyền đang có nguy cơ bị mai một (Chân quê). Vì thế, Nguyễn Bính đã đào sâu, tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những  truyền thống dân gian trong sáng tạo Thơ mới. Thơ ông mang đậm chất quê, hồn quê trong cả nội dung và hình thức, là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê, lối nói quê, lời quê.

– Gắn bó, thấu hiểu con người thôn quê Việt Nam.  Dù viết về hình ảnh, cảnh sắc, con người nào thì tất cả đều thắm đượm một tình quê, duyên quê, hồn quê….

* Hình thức:

– Hình ảnh thơ bình dị: cây đa, bến nước…

– Thê thơ dân tộc: Lục bát.

– Ngôn ngữ: sử dụng yếu tố của ca dao dân ca…

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời

– Được rút trong tập Lỡ bước sang ngang (1940).

– Hoàn cảnh ra đời: Viết tại làng Hoàng Mai (quận Hoàng Mai, Hà Nội) năm 1939.

b. Nhan đề

– Tương tư: nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa, là hiện thân của tình yêu (một tâm hồn đang nhớ và một trái tim đang yêu).

– Khoảng cách về không gian, thời gian chính là cái cớ để tương tư => Tương tư là khao khát, là nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian để được gần kề.

=> Dạng thức đa dạng, phức tạp nhất nhưng cũng sống động nhất của tình yêu.

c. Bố cục: 2 phần

– Phần 1: 16 câu đầu: Nỗi tương tư của chàng trai.

– Phần 2: 4 câu còn lại: Ước vọng lứa đôi hòa hợp.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nỗi tương tư của chàng trai

– Diễn biến tâm trạng của tương tư:

+ Nhớ nhung

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.
Một người chín nhớ mười mong một người.

+ Băn khoăn, hờn dỗi

Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này.

+ Than thở

Ngày qua ngày lại qua ngày
Cây xanh đã nhuộm thành cây lá vàng.

+ Hờn trách nhẹ nhàng

Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành.

+ Nôn nao mơ tưởng

Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau.

+ Ước vọng xa xôi

Nhà em có một giàn trầu…
Nhà anh có một giàn cau liên phòng.

=> Tất cả diễn ra theo lối xen lồng, chuyển hóa rất tự nhiên, chân thực.

– Sự phức tạp tâm lí mang quy luật của tình yêu:

+ Vô lí mà hữu tình: Tạo ra một tình huống để giãi bày nỗi niềm, tâm trạng tương tư.

+ Có mà không có:

Câu hỏi tu từ: Cớ sao…? Có xa xôi mấy mà…? Biết cho ai…? Bao giờ…?

 => Trách móc nhẹ nhàng, dễ thương; là lời trách yêu, lời độc thoại nội tâm vang lên vì thương nhớ.

=> Đó là những biến thể khác nhau của lời tình tứ mà thôi.

– Không gian và thời gian tương tư:

+ Không gian rộng mở, xa cách:

++ Không gian thực rất gần (cách nhau một đầu đình, chung một làng…)

++ Không gian tâm lí lại rất xa (tình xa xôi…)

=> Sự đối lập giữa cảnh và tình.

+ Thời gian tương tư là thời gian đằng đẵng, vô tận. (Tương tư thức mấy đêm rồi). Mấy đêm vốn không phải là nhiều như “nghìn đêm”, “ba thu” nhưng ở đây mang sắc thái như là vô hạn, triền miên.

=> Sự đối lập giữa thời gian vật lí và thời gian tâm lí: Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mòn mỏi nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê.

– Câu lục với điệp từ “ngày” và cách ngắt nhịp 3/3, khiến chữ “lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu.

=> Ngày mới chỉ còn lại là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán, vô vọng. Giọng thơ vang lên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm.

– Câu thơ “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” diễn tả quan hệ thời gian và tâm trạng tinh tế và ý nhị.

+ Thời gian có màu. Chữ “nhuộm” diễn tả thời gian chậm chạp. ( So sánh với chữ “nhuốm” trong: Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san – Nguyễn Du ). “Nhuốm” là sự biến đổi sắc màu diễn ra ở bề mặt, chưa hoàn tất. Còn “nhuộm” có vẻ đã hoàn tất và thấm sâu vào bên trong. Chữ “nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Không hẳn thời gian, không hẳn là nội tại của cây lá mà có lẽ là nỗi tương tư.

+ Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã “nhuộm” cây héo úa.

=> Kẻ tương tư và cây úa vàng có mối tương giao kì lạ. Cây vừa là nhân chứng vừa là đồng minh với kẻ tương tư; vừa là nạn nhân cũng là hiện thân của nỗi tương tư đó.

2. Bức tranh quê trữ tình nhuốm nỗi tương tư

– Sự hòa quyện của tình quê với cảnh quê:

+ Nỗi tương tư của chàng trai

+ Gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê bao đời (Thôn làng, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn trầu, hàng cau…)

=> Cảnh thôn quê trở thành phương tiện, ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị.

– Người tương tư, cảnh cũng tương tư: Bài thơ đã tạo ra hai nỗi tương tư song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: Người nhớ người và thôn nhớ thôn. Sâu xa hơn nó còn biểu đạt quy luật tâm lí:khi tương tư thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm nỗi tương tư ấy.

=> Vì thế có hai miền không gian nhớ nhung tràn ngập cả bài thơ.

– Dấu ấn dân gian trong bài thơ:

+ Dùng chất liệu ngôn từ:

++ Địa danh (Thôn Đoài, thôn Đông); thành ngữ (chín nhớ mười mong)

++ Dùng số từ (một, chín, mười); cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ tạo khoảng cách xa (Một người…một người) giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”

++ Cấu trúc câu trùng điệp (Gió mưa là…Tương tư là…, Nhà em có…Nhà anh có…)

++ Phép điệp và phép đối quen thuộc của ca dao: (Ngày qua ngày lại qua ngày…)

++ Đại từ phiếm chỉ “ai” ý nhị, duyên dáng, kín đáo (Biết cho ai hỏi ai người biết cho…) … Tất cả các cách diễn đạt từ ca dao dân ca ấy hòa quyện vào từng câu thơ, ý thơ hết sức nhuần nhị.

+ Giọng điệu: Là giọng kể lể, giọng của điệu nói (Bảo rằng…, Đã đành…, Nhưng đây…, Có…mấy mà…).

3. Khát vọng lứa đôi trong tình yêu

– Sự hiện diện hàng loạt những hình ảnh cặp đôi cho thấy đằng sau nỗi tương tư là niềm khao khát gần kề, khao khát chung tình:

+ Thôn Đoài/ Thôn Đông

+ Một người/ một người

+ Gió mưa/ tương tư        

+ Tôi/ nàng

+ Bên ấy/ bên này            

+ Hai thôn/ một làng

+ Bến/ đò                         

+ Hoa khuê các/ bướm giang hồ

+ Nhà anh/ nhà em          

+ Giàn trầu/ hàng cau

+ Cau thôn Đoài/ trầu thôn Không

+ Trình tự xuất hiện những cặp đôi: Từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi trầu – cau.

=> Đó chính là khao khát nhân duyên. Tình yêu gắn với hôn nhân là quan niệm về tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, cũng rất gần với quan niệm truyền thống của dân gian (Bài ca dao tát nước đầu đình)

=> Chất quê thấm vào hồn thơ Nguyễn Bính, làm nên giá trị nhân văn bài thơ.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Bài thơ là tiếng lòng về một tình yêu trong sáng, đơn phương, mạnh mẽ.

– Thế hiện tình cảm chân thành, thấm đượm hồn quê Việt với nhiều nét đẹp văn hóa dân gian.

2. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ lục bát: đậm đà tính dân tộc, mang tính chất biểu cảm nổng nàn.

– Ngôn ngữ: dung dị, hồn nhiên, dân dã nhưng vẫn đậm chất lạng mạn, thơ mộng.

– Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ đặc sắc và sáng tạo.

– Hình ảnh sóng đôi: trầu – cau, bến – đò, hoa – bướm, thôn Đoài – thôn Đông; quan niệm về tình yêu gắn bó, thủy chung…

– Thi liệu dân gian: Bài thơ mang vẻ đẹp chân quê, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.

Tìm hiểu văn bản: Hầu trời – Tản Đà

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu dẫn

– Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu

– Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây), mồ côi cha từ nhỏ, già đình nghèo khó.

– Năm 1913 ông làm báo tại Vĩnh Yên.

– Năm 1915 ông lấy vợ.

– Năm 1916 ông chính thức chọn con đường viết văn, làm báo chuyên nghiệp.

– Năm 1926 ông cho ra đời An Nam tạp chí.

– Con người:

+ Sinh ra và Lớn lên trong buổi giao thời.

+ Là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)

+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ…

b. Sự nghiệp văn học

* Di sản văn học

– Thơ: Khối tình con người I, II (1916, 1918)

– Truyện: Giấc mộng con người I, II (1916, 1932)

– Tự truyện: Giấc mộng lớn (1928)

– Thơ và văn xuôi: Còn chơi (1921).

* Phong cách thơ

– Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.

– Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

– Ông có lối đi riêng vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa

c. Vị trí và tầm ảnh hưởng

– Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà.

– Nghe tin Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước trở nên xôn xao. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó:

+ Khái Hưng có “Cái duyên của Tản Đà”, “Vài chuyện vui về thi sĩ Tản Đà”.

+ Xuân Diệu có “Công của thi sĩ Tản Đà”

+ Lâm Tuyền Khách có “Một tháng với Tản Đà”,“Đời làm báo của Tản Đà”

+ Lưu Trọng Lư có “Bây giờ, khi nắp quan tài đã đậy lại”

+ Phan Khôi có “Tôi với Tản Đà thi sỹ”

+ Nguyễn Tuân có “Tản Đà, một kiếm khách”

 Những bài viết này thể hiện sự kính trọng, quý mến đối với con người Tản Đà.

– Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” nổi tiếng, đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế “chủ suý” của hội tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào một giai đoạn tươi đẹp mới.

– Ông là người sáng lập ra tờ báo chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam: tờ “An Nam tạp chí”, nó gắn liền với sự nghiệp làm báo của Tản Đà.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời

–  Trong tập “Còn chơi” (1921)

–  Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…

b. Bố cục

– Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua … lạ lùng”

– Phần 2: “chủ tiên … chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.

c. Nội dung

Bài thơ bộc lộ cái tôi cá nhân ngông cuồng, phóng túng và y thức cao về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Giới thiệu câu chuyện

– Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua”: Gợi khoảnh khắc yên tĩnh, vắng lặng.

– Câu chuyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).

– Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng”

– Biện pháp nghệ thuật: nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân.

+ Điệp từ ‘thật”: Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.

+ Câu cảm thán dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.

+ Câu khẳng định

– Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực. Cách vào vấn đề gây được mối nghi vấn kích thích trí tò mò ở người đọc, tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện.

=> Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạn, bay bổng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi nhân. Với cách vào chuyện độc đáo có duyên đã làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên hấp dẫn lôi cuốn.

2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe

* Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:

– Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:

“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi”

–  Rất đắc ý nên càng đọc càng có cảm xúc nên đọc rất hay: “văn dài hơi tốt ran cung mây”.

– Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:

“Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”

– Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.

=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả

– Thái độ của trời: tán dương, khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…

– Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…

– Nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật vẻ đẹp từ ngôn ngữ thơ đến chí khí, tâm hồn của thi sĩ.

=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.

3. Thi nhân trò chuyện với trời

* Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình

– Thi nhân kể họ tên, quê quán:

“ Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam”

– Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.

– Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.

“Bẩm trời hoàn cảnh con thực nghèo khó”
“Trần gian thước đất cũng không có”
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo”
“Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”

Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.

=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.

=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.

* Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân

– Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.

+ Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát ly cuộc sống.

+ Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

+ Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.

– Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời

=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.

* Cá tính và tâm hồn thi sĩ

– Một con người có cái tính rất ngông: hạ giới khinh rẻ tài năng Tản Đà lên tận trời cao để thể hiện.

– Một con người ý về cá nhân rất cao, dám tự mình khen mình. Đây không phải là sự tự kiêu mà là cá nhân tự ý thức được tài năng thực sự của mình.

– Giọng kể hào hứng, phấn chấn, tự hào.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và cái tôi cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.

– Có thể thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình.

2. Gía trị nghệ thuật

– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.

– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.

– Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.

– Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.

– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do…

Tìm hiểu văn bản: Lưu biệt khi xuất dương – Phan Bội Châu

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử

– Phan Bội Châu (1867 – 1940) vốn tên là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam.

– Ông sinh ra tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

– Ông nổi tiếng thông minh từ bé: Năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện.

– Năm 1885, ông tham gia lập đội Sĩ Tử Cần Vương chống Pháp.

– Năm 1900 ông đậu đầu Giải Nguyên nhưng không ra làm quan mà nung nấu con đường cứu nước theo tư tưởng mới.

– Năm 1904 ông cùng hơn 20 đồng chí khác lập Duy Tân hội chống Pháp.

– Năm 1905 thực hiện phong trào Đông Du

– Năm 1912 thành lập Việt Nam Quang Phục hội

– Năm 1922 ông định thực hiện chính sách cải tổ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự góp ý của Nguyễn Aí Quốc.

– Năm 1925 ông bị thực dân Pháp bắt cóc và xử án tù chung thân.

b. Sự nghiệp sáng tác

– Di sản văn học:

Ông là cây bút suất sắc của văn chương Cách mạng. Các tác phẩm chính: Việt Nam vong quốc sửHải ngoại huyết thưNgục trung thưTrùng Quang tâm sửPhan Sào Nam văn tậpPhan Bội Châu niên biểu,….

– Phong cách sáng tác:

Văn chương ông có hình thức cổ điển nhưng vẫn mới mẻ. Đó là vũ khí để tuyên truyền cổ động, thơ văn ông đã làm rung động biết bao con tim yêu nước.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ được sáng tác vào năm 1905 trước lúc tác giả sang Nhật Bản tìm một con đường cứu nước mới, ông làm bài thơ này để giã từ bè bạn, đồng chí.

b. Nội dung chính

Bài thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi nổi và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.

c. Bố cục

– Phần 1 (4 câu đầu): Quan niệm mới về chí làm trai, cùng ý thức của cái tôi đầy trách nhiệm.

– Phần 2 (còn lại): Ý thức được nỗi nhục mất nước, sự lỗi thời của nền học vấn cũ, đồng thời thể hiện khát vọng hăm hở, dấn thân trên hành trình cứu nước.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tìm hiểu tác phẩm theo bố cục: Đề – Thực – Luận – Kết

  Hai câu đề

– Trước hết câu thơ vẫn nói đến chí nam nhi, một quan niệm nhân sinh phổ biến thời phong kiến: nam nhi phải làm nên nghiệp lớn xưng danh với thiên hạ, phải lạ ở trên đời.

– Thế nhưng trong quan niệm cuả mình cụ Phan đã có điểm nhìn mới mẻ, sáng tạo hơn: Há để càn khôn tự chuyển dời”.

+ Thời xưa người ta thưởng phó mặc cuộc đời cho hai chữ số phận, mệnh người do trời định đoạt.

+ Nhưng với cụ Phan làm trai sao lại để như vậy, phải tự mình chủ động xoay chuyển thời thế (đặt trong hoàn cảnh hiện tại câu thơ ngụ ý nói tới việc tìm đường cứu nước).

+ Hình thức câu hỏi tu từ khiến câu thơ xoáy sâu và tâm trí người đọc đặc biệt là các đấng nam nhi.

 Hai câu thực

– Tác giả đã thể hiện rõ cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm gánh vác giang sơn, đồng thời mang ý kích lệ ý thức này ở các trang nam nhi

– Một người sống vì dân vì nước tên tuổi sẽ lưu truyền ngàn năm

⇒ Hai câu thơ cụ thể hóa lẽ sống của trang nam nhi: phải tự giác chủ động, lưu danh thiên cổ. Đồng thời thúc giục mọi người sống có ích

 Hai câu luận

– Chí nam nhi được gắn chặt vào hoàn cảnh hiện tại của đất nước:

+ Hiện lên trong câu thơ là nỗi đau mất nước, nỗi nhục của thân phận nô lệ cùng sự phản kháng ngầm, không cam chịu (sống thêm nhục)

+ Trung quân ái quốc là tư tưởng đạo đức nho gia nhưng hiện nay còn đâu vua hiền mà trung, sách vở thánh hiền đâu cứu được thời buổi nước mất nhà tan nàyè câu thơ thức tỉnh hành động thiết thực, yêu nước là phải cứu nước

– Bằng sự quyết liệt táo bạo của nhà cách mạng đi trước thời đại Phan Bội Châu đang đối đầu, phản bác trực tiếp nền học vấn cũ, thức tỉnh những chí sĩ yêu nước

 Hai câu kết

– Những hình ảnh kì vĩ, lớn lao: Biển Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc phù hợp với hành động cao cả, tầm vóc phi thường của chủ thể trữ tình

– Câu thơ cuối chứa đựng một hình ảnh hào hùng lãng mạn thể hiện tư thế, khát vọng lên đường của người chí sĩ yêu nước, khơi gợi được nhiệt huyết cả một thế hệ.

2. Tư duy mới mẻ, táo bạo của chí sĩ cách mạng

– Quan niệm mới về chí làm trai và tư thế tầm vóc của con người trong vũ trụ: tức là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, dám mưu đồ những việc kinh thiên động địa, xoay chuyển càn khôn. 

– Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc: Con người dám đối mặt với cả đất trời, vũ trụ để tự khẳng định mình.

– Thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ: Sự hăm hở của người ra đi qua khát vọng muốn vượt theo cánh gió dài trên biển rộng để thực hiện lí tưởng cách mạng.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

 – Lý tưởng yêu nước cao cả, nhiệt huyết, sôi sục

– Tư thế đẹp đẽ và khát vọng lên đường cháy bỏng của chí sĩ cách mạng.

2. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn bát cú luật bằng

– Hình ảnh sinh động vá sức truyền tải cao.

– Bài thơ mang một giọng điệu rất riêng: hăm hở, đầy nhiệt huyết.

– Ngôn ngữ thơ bình dị mà có sức lay động mạnh mẽ.

Tìm hiểu văn bản: Hạnh phúc của một tang gia

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử 

– Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939), sinh ra ở Mỹ Hào, Hưng Yên nhưng lớn lên và sinh sống tại Hà Nội.

– Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó và sớm mồ côi cha, nên ông phải thôi học sớm.

– Sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông phải đi làm kiếm sống, nhưng chẳng bao lâu thì mất việc.

– Từ đó, ông sống chật vật, bấp bênh bằng nghề viết báo, viết văn, chuyên nghiệp.

– Khoảng năm 1937 – 1938, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao, nhưng không có điều kiện để chạy chữa. Ông mất tại Hà Nội.

b. Sự nghiệp văn học

* Tác phẩm chính

– Ông để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ, tiêu biểu như: “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê”, “Kỹ nghệ lấy Tây”, “Cạm bẫy người”, …

* Phong cách nghệ thuật

– Văn chương Vũ Trọng Phụng thể hiện thái độ căm phẫn đối với xã hội chó đểu”.

– Ông là cây bút trào phúng bậc thầy, một trong những đại biểu xuất sắc của xu hướng văn học hiện thực.

II. Tác phẩm

a. Tóm tắt tác phẩm

   Tác phẩm xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Tổ, từ khi cụ ngấp ngoải chết đến khi chết thật. Chuyện nhặng xị bắt đầu cũng xảy ra từ khi ông cụ mất và câu chuyện cũng chỉ có ý nghĩa từ giây phút này. Cụ chết để lại cho con cháu cơ hội để khoe mẽ với thiên hạ những nghịch lý của “thế hệ con cháu” hiếu thảo bằng những bộ trang phục âu hóa nửa tây nửa ta và những trò “Mèo mả gà đồng” của dâu con lẫn người xung quanh. Cái đám ma to tát cụ Tổ là một cuộc diễu hành của buổi lễ hội di động bằng mọi trò hề của tầng lớp trung thượng lưu. Qua đoạn trích, tác giả đã phơi bày những trò nhố nhăng, phi đạo đức lẫn truyền thống của những kẻ sống núp dưới gót giầy thực dân xâm lược, là bức tranh toàn cảnh của xã hội đương thời đầy thối nát lúc bấy giờ.

b. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời

– Tiểu thuyết “Số đỏ” được viết và đăng báo năm 1936, in thành sách năm 1938.

– Đoạn trích thuộc chương XV của tiểu thuyết này.

c. Bố cục

– Phần 1 (từ đầu đến cho Tuyết vậy): Niềm vui và hanh phúc của các thành viên khi cụ tổ qua đời

– Phần 2 (tiếp đến đám cứ đi): cảnh đám ma gương mẫu

– Phần 3 (còn lại): Cảnh hạ huyệt

II. Trọng tâm kiến thức

1. Ý nghĩa nhan đề

– Nhan đề xuất hiện như một sự châm biếm, mỉa mai : tang gia mà lại hạnh phúc

– Nhan đề thể hiện sự đối lập, mâu thuẫn tạo nên tiếng cười bi hài: Một bên là sự tang thương, mất mát đáng lẽ phải đau buồn lại song hành với hạnh phúc, niềm vui.

=> Nhan đề đã dự báo một màn hài kịch sắp diễn ra với nhiều nghịch lí và những pha “cười ra nước mắt”.

2. Niềm vui và hạnh phúc của các thành viên khi cụ Tổ qua đời

* Nguyên nhân của tấn bi hài

– Cụ Tổ mất đi, di chúc được thực thi.

– Ước nguyện của mọi người trong gia đình được thực hiện.

* Những niềm hạnh phúc khác nhau trong gia đình

– Cụ cố Hồng

+ Mới chỉ 50 tuổi nhưng luôn ước mơ được gọi là cụ cố.

+ Nhắm mắt, tượng tưởng lúc “mặc áo xô gai trắng lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu máo.”

=> Đây là nhân vật điển hình cho sự ngu dốt và háo danh.

– Ông Văn Minh được dịp quảng cáo, kiếm tiền.

– Bà Văn Minh có dịp mặc những bộ xô gai tân thời và lăng xê những bộ y phục táo bạo.

– Cô Tuyết thì được mặc bộ y phục ngây thơ.

– Ông Phán mọc sừng tin rằng “đôi sừng” có giá trị của mình sẽ được trả công.

– Cậu Tú Tân thì có dịp khoe tài chụp ảnh.

* Hạnh phúc lan ra cả những người bên ngoài

– Xuân tóc đỏ có uy tín ngày càng cao.

– Bạn bè cụ cố Hồng có dịp khoe huân chương, râu ria

– Cảnh binh sung sướng vì có việc làm

– Đám trai thanh gái lịch có dịp hẹn hò tình tứ, “chim chuột nhau”.

– Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng vênh váo”

3. Cảnh đám ma “gương mẫu”

* Không khí: Hỗn loạn

– Như một đám hội, đám rước

– Tổ chức linh đình theo cả lối Tây, Tầu, Ta: có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng….”

* Các nhân vật trong đám tang

– Trong đám ma cụ Tổ, cô Tuyết mặc bộ trang phục Ngây thơ để cả thiên hạ biết cô chưa đánh mất chữ trinh.

– Xuân tóc đỏ khiến cụ Tổ chết lại được chào đón trịnh trọng.

– Cậu Tú Tân thể hiện trình độ chụp ảnh bằng cách nhảy lên những ngôi mộ khác.

– Sư cụ Tăng Phú vênh váo vì sẽ có người nghĩ cụ có chiến công hiển hách “lật đổ Phật giáo”.

– Đám con cháu là ê kíp đạo diễn, diễn viên, nhiếp ảnh tài ba.

– “Đám cứ đi” và nam nữ cứ “chim nhau, cười tình với nhau”

* Cảnh hạ huyệt:

– Cụ cố Hồng mếu máo khóc ngất đi “Hứt, hứt, hứt”

– Ông Phán mọc sừng rúi tiền vào tay Xuân tóc đỏ.

=> Đám tang trở thành trò diễn bịp bợm, lố bịch và lố lăng, đồi bại.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

Tác giả tố cáo xã hội nhố nhăng, suy tàn, thối nát. Miêu tả cái “đám cứ đi”, nhà văn muốn phơi bày tất cả sự giả dối, bịp bợm, vô đạo đức của xã hội thượng lưu. Từ đó nhà văn đả kích châm biếm sâu cay, thâm thuý những thói xấu xa của xã hội đương thời.

2. Giá trị nghệ thuật

 – Xây dựng những chi tiết mâu thuẫn trào phúng ấn tượng trong đoạn trích:

+ cảnh đám ma được tổ chức rất đông rất to

+ cảnh cậu Tú tân bắt mọi người phải đóng kịch để chụp hình

+ cảnh ông Phán oặt người đi, khóc thảm thiết trên tay Xuân

– Nghệ thuật xây dựng và phát triển các tình huống

– Giọng văn mỉa mai, sử dụng thủ pháp cường điệu, nói quá được sử dụng một cách linh hoạt

– Ngòi bút miêu tả sắc sảo: Những nét riêng của từng nhân vật trong đoạn trích.

Tìm hiểu văn bản: Chiếu cầu hiền – Ngô Thị Nhậm

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử 

– Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) hiệu là Hi Doãn, người làng Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).

– Là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê và Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh.

b. Sự nghiệp văn học

– Tác phẩm chính:

+ Về thơ, Ngô Thì Nhậm có một số tập thơ nổi tiếng như: Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn đàm (Thủy vân nhàn vịnh),…

+ Về phú, ông có 17 bài chép ở tập Kim mã hành dư.

+ Về văn, ông có một số tác phẩm lớn đặc biệt là Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được coi là tác phẩm thể hiện nổi bật nhất tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm.

2. Tác phẩm

a.  Hoàn cảnh ra đời

– Do Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 – 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.

b. Thể loại

– Chiếu thuộc loại văn nghị luận cổ, thường do vua chúa ban ra để triều đình và nhân dân thực hiện.

– Có thể do vua đích thân viết nhưng thường do các văn tài võ lược viết thay vua.

c. Bố cục (3 phần)

– Phần 1 (Từ đầu đến “…người hiền vậy” ): mối quan hệ giữa hiền tài và thiên tử

– Phần 2 (Tiếp đến “…hay sao?”): thực tại và nhu cầu của thời đại

– Phần 3 ( Còn lại): đường lối cầu hiền của vua Quang Trung

II. Trọng tâm kiến thức

1. Mối quan hệ giữa hiền tài và thiên tử

– Người hiền tài như ngôi sao sáng trên trời: so sánh người hiền tài như vì sao tinh tú -> đề cao vị trí, vai trò của người hiền tài.

– Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần: Bắc Thần (sao Bắc Đẩu) tượng trưng cho ngôi vua -> người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử.

-> Mối quan hệ gắn bó, vai trò của người hiền đối với thiên tử trong công cuộc trị nước.

– “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.” => Mượn ý trời, xem việc người hiền tài về với thiên tử là hợp quy luật, nếu người hiền tài tự giấu mình là trái ý trời -> cách nói gián tiếp, trực tiếp ngắn gọn, giàu hình ảnh -> luận đề thuyết phục người đọc, đánh trúng tâm lí của kẻ sĩ – những con người luôn muốn đem sức mình cho giang sơn xã tắc.

2. Thực trạng và nhu cầu của thời đại

*  Thái độ của sĩ phu Bắc Hà và tâm trạng của vua Quang Trung

– Thái độ của sĩ phu Bắc Hà:

+ “Kẻ sĩ ẩn trong ngòi khe trốn tránh việc đời”: kẻ sĩ mai danh ẩn tích uổng phí tài năng.

+ “Những bậc tinh anh trong triều đương phải kiêng dè không dám lên tiếng”: người ra làm quan thì giữ mình không dám nỏi thẳng.

+ Nhiều người có tài năng còn chưa chịu ra giúp nước

– Tâm trạng của vua Quang Trung:

+ “Nay trẫm đang lắng nghe, ngày đêm mong mỏi,…”: khắc khoải chờ người hiền ra giúp nước

+ Hàng loạt các câu hỏi ( hay trẫm ít đức…? Hay đang thời đổ nát…?): thái độ khiêm tốn, chân thành nêu rõ lịch sử đã sang trang, cơ hội để người hiền tài ra giúp nước. Câu hỏi buộc người nghe phải thay đổi cách ứng xử.

* Thực trạng và nhu cầu của thời đại

– Thực trạng:

+ Triều đình chưa ổn định

+ Biên ải chưa yên

+ Dân chưa lại sức

+ Ân đức vua chưa thấm nhuần khắp nơi

-> Triều đại mới lập, nhiều nhiệm vụ, khó khăn mới.

– Nhu cầu của thời đại:

+ Hình ảnh “Một cái cột không thể đỡ nổi căn nhà lớn,…trị bình” -> khẳng định vai trò to lớn của người hiền.

+ Dẫn lời Khổng Tử: “Cứ cái ấp mười nhà…của trẫm sao?” -> khẳng định nước ta có nhiều nhân tài, họ cần ra giúp nước.

+ Lời tâm sự chân thành, khiêm nhường nhưng kiên quyết và đầy sức thuyết phục.

+ Quang Trung là một vị vua yêu nước, thương dân, có lòng chiêu hiền đãi sĩ.

=> Lí do hoàn toàn đều xuất phát từ quyền lợi của dân, mọi chủ trương chiến lược đều xuất phát từ khát vọng đất nước cường thịnh.

3. Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung

– Đối tượng nhận chiếu:

+ Các bậc quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ…tài cao mưu hay dâng sớ tâu bày -> Lời cầu hiền mang tính dân chủ sâu sắc

– Mục đích: làm rạng rỡ chốn vương đình

-> Mục đích cao cả, vì đất nước, tổ quốc, dân tộc

– Đường lối tiếp nhận người hiền:

+ Tự mình dâng thư tâu bày

+ Quan văn, quan võ được phép tiến cử

+ Những người ở ẩn được phép tự tiến cử

-> Khẳng định tính dân chủ qua hình thức tự tiến cử và tiến cử

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Tác phẩm là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của Nguyễn Huệ nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước.

2. Giá trị nghệ thuật

 Là một áng văn nghị luận mẫu mực:

– Lập luận chặt chẽ, hợp lí, thuyết phục

– Lời lẽ khiêm nhường, chân thành

– Từ ngữ, hình ảnh:

+ Sử dụng điển cố, hình ảnh ẩn dụ

+ Từ ngữ giàu sức gợi

-> tạo cảm giác trang trọng cho lời kêu gọi 

Tìm hiểu văn bản: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử 

– Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), sinh ra tại quê mẹ – làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).

– Cuộc đời gặp nhiều bất hạnh, mất mát

b. Sự nghiệp văn học

* Tác phẩm chính

– Cuộc đời sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn chính: trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược:

+ Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ- Hà Mậu.

+ Giai đoạn sau: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp,…

* Nội dung thơ văn

– Thể hiện lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa và lòng yêu nước, thương dân

* Phong cách nghệ thuật

– Đậm sắc thái Nam Bộ

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc.

– Năm 1861, vào đêm 14-12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại.

b. Thể loại

– Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế – tưởng.

– Bài văn tế thường có các phần:

+ Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết)

+ Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết)

+ Ai vãn (than tiếc người chết)

+ Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết).

c. Bố cục (4 phần)

– Lung khởi (Từ đầu đến “…tiếng vang như mõ”): cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

– Thích thực (Tiếp theo đến”… tàu đồng súng nổ”):  hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa sĩ.

– Ai vãn (Tiếp theo đến “…cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”): lời thương tiếc người chết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.

– Kết (Còn lại): tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Phần 1 – Lung khởi

– Mở đầu: “Hỡi ôi!”:

+ Tiếng than thể hiện tình cảm thương xót đối với người đã khuất

+ Tiếng kêu nguy ngập, căng thẳng của đất nước trước giặc ngoại xâm

-> tiếng than lay động lòng người, nỗi xót xa, đau đớn trong lòng tác giả

+ Nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” – “Lòng dân trời tỏ” -> phác họa khung cảnh bão táp của thời đại

+ Hình ảnh không gian to lớn đất, trời kết hợp những động từ gợi sự khuếch tán âm thanh, ánh sáng rền, tỏ -> sự đụng độ giữa thế lực xâm lược hung bạo với vũ khí tối tân và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.

– Mười năm công võ ruộng – Một trận nghĩa đánh Tây

+ Người nông dân trở thành người nghĩa sĩ, yếu tố thời gian phản ánh sự chuyển biến, sự vùng dậy đấu tranh mau lẹ của người dân yêu nước.

+ Hoàn cảnh đất nước bị Pháp xâm lược và sự phản ứng mạnh mẽ đấu tranh chống trả của nhân dân.

2. Phần 2 – Thích thực ( Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ )

– Trước khi giặc đến:

+ Lai lịch: là những người nông dân

+ Cuộc sống: cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy vốn quen làm…

+ Sử dụng từ láy ( cui cút ) tái hiện cuộc sống chịu khó, lam lũ, bao lo toan, vất vả nhưng vẫn nghèo túng của những người nông dân. Đó là cuộc sống gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày => họ hiền lành, chất phác.

+ Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ,…=> xa lạ, không hiểu biết với công việc nhà binh, chiến tranh.

– Khi giặc đến:  mùi tinh chiên vấy vá…/ ghét thói mọi…./bữa thấy bòng bong…=> hành động tội ác và sự hoành hành ngang nhiên, khiêu khích của quân thù diệt tàn cuộc sống của người nông dân

+ Lòng căm thù giặc kìm nèn qua các yếu tố thời gian: hơn 10 tháng, đã 3 năm đến mức phản ứng tự nhiên mà quyết liệt: muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ,…

+ Nhận thức: một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu -> nhận thấy trách nhiệm của mình trước hoàn cảnh đất nước.

+ Hành động: Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình ; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ -> tự nguyện bổ sung vào đội quân chiến đấu với quyết tâm sắt đá.

– Cuộc chiến đấu với kẻ thù của nghĩa sĩ Cần Giuộc:

+ Điều kiện chiến đấu:

Lực lượng: không quen binh đao

Vũ khí: vật dụng thô sơ

Binh thư, binh pháp: không quen, không biết

=> Vô cùng khó khăn

+ Chiến đấu:

Tinh thần: theo tình cảm tự nhiên, không tính toán, quả cảm, khí thế vũ bão

Hành động: đạp, xô, đấm, đánh, đâm, chém,…

-> Sử dụng một loạt các động từ gợi sức mạnh, tư thế hiên ngang, tinh thần quả cảm của nghĩa sĩ.

-> Bức tranh chiến trận thể hiện rõ tinh thần bão táp, hào hùng của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

-> Tượng đài nghệ thuật sừng sững, rực rỡ về hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.

3. Phần 3 – Ai vãn

– Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ -> bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người viết

– Tiếng khóc được cổng hưởng từ nhiều nguồn cảm xúc khác nhau:

+ Nỗi tiếc, ân hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành.

+ Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thân không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ.

+ Nỗi căm giận kẻ thù gây nên nghịch cảnh éo le hòa chung tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước.

+ Niềm cảm phục và tự hào vì những người nông dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, lấy cái chết làm rạng ngời chân lí cao đẹp: chết vinh còn hơn sống nhục.

+ Biểu dương công trạng của người nghĩa sĩ đời đời được nhân dân ngưỡng mộ và Tổ quốc ghi công.

-> Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà cao hơn, tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng của người liệt sĩ. Tiếng khóc không chỉ gợi nỗi đau thương mà còn khích lệ tinh thần chiến đấu của người còn sống.

4. Phần 4 – Kết (Ca ngợi linh hồn bất diệt của nghĩa sĩ)

– Hai câu cuối thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của tác giả trước hình tượng người nghĩa sĩ nông dân: nước mắt anh hùng lau chẳng ráo -> giọt nước mắt chân thành của Nguyễn Đình Chiểu.

– Bài văn tế kết thúc trong giọng điệu trầm buồn. Ngữ điệu câu không trọn vẹn -> giây phút mặc niệm, cái nấc nghẹn ngào đến đau đớn của Đồ Chiểu, của bao người gửi đến những nghĩa sĩ đã ngã xuống vì đất nước

-> Ngợi ca công đức của họ

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc – những người sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

2. Giá trị nghệ thuật

– Ngôn ngữ chân thực, giàu cảm xúc

– Lời văn biền ngẫu, uyển chuyển, giàu hình ảnh  

– Thủ pháp liệt kê, đối lập,…

Tìm hiểu văn bản: Chạy giặc – Nguyễn Đình Chiểu

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Hiện nay, chưa thấy tài liệu nào nói rõ thời điểm ra đời của bài thơ Chạy giặc.

– Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu và nhất là nội dung tác phẩm, có người cho rằng bài thơ này đã được tác giả viết ngay sau khi thành Gia Định bị thực dân Pháp bắt đầu tấn công (ngày 17/2/1859).

b. Bố cục

– Sáu câu đầu: Cảnh đất nước và nhân dân khi thực dân Pháp đến xâm lược

– Hai câu cuối: Tâm trạng, thái độ của tác giả

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảnh đất nước và nhân dân khi thực dân Pháp đến xâm lược (6 câu đầu)

a. Hai câu đề

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”

– Giặc đến:

+ Thời điểm: tan chợ -> nơi đông đúc, thời khắc hướng về sự đoàn viên, sum họp, quây quần.

+ Âm thanh: súng Tây -> lần đầu tiên xuất hiện trong văn học -> gợi sự tàn bạo, hủy diệt hàng loạt.

=> Sự hoảng loạn, kinh hoàng của con người trước âm thanh ghê rợn, gây tàn sát trong thời điểm không ngờ tới.

– Đất nước: bàn cơ thế/phút/sa tay

-> Tình thế bất ngờ, thất thế, mất chủ động

-> Giặc đến phá tan cuộc sống yên bình của nhân dân. Đất nước rơi vào tình trạng nguy ngập.

b. Hai câu thực

– “Bỏ nhà”, “lơ xơ chạy”, “mất ổ”, “dáo dát bay” -> sự tan nát, tán loạn, hãi hùng

– “Lũ trẻ”, “đàn chim” -> hai hình ảnh điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân

– Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh: bỏ nhà, mất ổ -> tạo nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân làng

=> Cảnh chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân

c. Hai câu luận

“Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”

– Các địa danh nổi tiếng Bến Nghé cửa tiền -> tan bọt nước; Đồng Nai tranh ngói

-> nhuốm màu mây.

=> Cảnh trù phú, sầm uất, tươi đẹp, bình yên trước kia đã bị hủy diệt đến kiệt cùng, tan hoang khi giặc đến.

Như vậy, sáu câu thơ với hình ảnh chân thực, tiêu biểu đã vẽ lại toàn cảnh quê hương khi giặc đến. Một cuộc sống an bình không còn, thay vào đó là sự tan hoang, đau thương.

2. Tâm trạng, thái độ của tác giả (hai câu cuối)

– Tâm trạng của tác giả được thể hiện qua câu hỏi tu từ:

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Lỡ để dân đen mắc nạn này

-> Tái hiện hiện thực: quê hương ngập tràn bóng giặc nhưng triều đình không có một biểu hiện động thái nào -> Từ đó bộc lộ tâm trạng phẫn uất, thất vọng đồng thời thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải sự xuất hiện của trang dẹp loạn để cứu nước

-> Đó là lời kêu gọi tha thiết lòng yêu nước trong mỗi người để hành động chống lại kẻ thù xâm lược.

-> Tấm lòng yêu nước sâu sắc của cụ đồ Chiểu

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Chạy giặc đã tái hiện chân thực cảnh quê hương khi thực dân Pháp đến tàn sát.

– Bài thơ còn thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết của nhà thơ. Đó là những giây phút đau thương trước cảnh nước mất nhà tan. Ông đã lên tiếng kêu gọi những người có trách nhiệm đứng lên đánh giặc cứu nước và thức tỉnh lòng yêu nước trong mỗi người dân Việt.

2. Giá trị nghệ thuật

– Các biện pháp tu từ: từ láy, phép đối

– Hình ảnh thơ gợi hình, gợi cảm

– Ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu cảm xúc

Tìm hiểu văn bản: Lẽ ghét thương – Nguyễn Đình Chiều

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

2. Tác phẩm

a. Truyện Lục Vân Tiên

– Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, khi ông đã bị mù, về dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định.

– Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác, nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa; thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và của nhân dân đương thời về một xã hội tốt đẹp, ở đó mọi quan hệ giữa con người với con người đều thấm đượm tình cảm yêu thương, nhân ái.

– Tác phẩm thuộc thể loại truyện Nôm bác học nhưng mang nhiều tính chất dân gian, ngay từ khi ra đời đã được nhân dân, đặc biệt là người dân Nam Kì đón nhận và lưu truyền rộng rãi.

– Tóm tắt:

Nhân vật chính của tác phẩm là Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn. Chàng đã đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga. Nguyệt Nga nguyện lấy chàng để trả nghĩa. Trên đường đi thi, Lục Vân Tiên nghe tin mẹ mất, chàng phải quay về chịu tang. Chàng khóc thương mẹ đến mù cả hai mắt. Chàng bị Trịnh Hâm ghen ghét, đố kị, lừa đẩy chàng xuống sông nhưng chàng được cứu thoát. Võ Thể Loan đã hứa gả con gái cho chàng nay thấy chàng bị mù liền trở mặt, đẩy chàng vào hang sâu. Chàng đã được thần Phật cứu giúp, mắt sáng trở lại, rồi đỗ trạng nguyên, được cử đi đánh giặc Ô Qua. Kiều Nguyệt Nga quyết chung thuỷ với Vân Tiên. Thái sư bắt nàng đi cống cho giặc. Nàng nhảy xuống sông tự vẫn ôm theo bức hình Vân Tiên. Nàng được cứu sống, lại bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, nàng bỏ trốn. Tác phẩm kết thúc có hậu, Vân Tiên thắng trận trở về gặp Nguyệt Nga, hai người kết nghĩa vợ chồng.

b. Đoạn trích “Lẽ ghét thương”

* Vị trí đoạn trích

– Lẽ ghét thương là đoạn trích từ câu 473 đến câu 504 của Truyện Lục Vân Tiên, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

– Ông Quán chỉ là một nhân vật phụ trong truyện nhưng lại rất được yêu thích, bởi lẽ đó là biểu tượng của tình cảm yêu ghét phân minh, trong sáng của quần chúng.

* Bố cục

– Phần 1 (6 câu đầu): cuộc đối thoại của ông Quán và Vân Tiên

– Phần 2 (10 câu tiếp): Lời ông Quán về lẽ ghét

– Phần 3 (14 câu tiếp): Lời ông Quán bàn về lẽ thương

– Phần 4 (2 câu cuối): Tư tưởng và tấm lòng của tác giả

II. Trọng tâm kiến thức

1. Thái độ ghét thương qua lời đối đáp giữa ông Quán với Vân Tiên

– Nhân vật ông Quán (chủ quán rượu) thuộc lực lượng chính nghĩa hỗ trợ nhân vật chính ( trên đường tìm chính nghĩa)

– Ông Quán có phong thái của một nhà nho ở ẩn, am tường kinh sử, và quặn lòng với những kẻ làm băng hoại xã hội, đau khổ dân lành.

– “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét những kẻ làm hại dân. Ông Quán bày tỏ thái độ thương ghét phân minh.

=> Đây là câu nói có tính chất khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn trích. Tác giả đã lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.

2. Mối quan hệ giữa ghét – thương trong thái độ ông Quán

* Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương dân lầm than

– Ghét:

+ Đời Kiệt, Trụ mê dâm >< dân sa hầm sẩy hang

+ Đời U, Lệ đa đoan >< dân lầm than

+ Đời Ngũ bá phân vân >< dân nhọc nhằn

+ Đời thúc quý phân băng >< rối dân

– Điệp từ “ghét”+ “đời” + liệt kê hàng loạt các điển cố: Kiệt, Trụ, U, Lệ, Ngũ bá, thúc quý + Nghệ thuật đối lập giữa vua quan với dân + điệp từ “dân” + động từ “sa, sẩy” + tính từ “lầm than, nhọc nhằn, rối”-> Tác giả căm ghét những tên vua dâm ác, tham tàn, bạo ngược, những kẻ đã gây ra hệ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lòng xót thương sâu sắc đối với người dân vô tội phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều.

=> Như vậy, tác giả đứng về phía nhân dân mà bày tỏ thái độ yêu ghét rạch ròi, đúng mực.

* Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương hiền tài không được trọng dụng

– Liệt kê các danh sĩ trong sử sách:

+ Khổng Tử: lận đận

+ Gia Cát: tài đức mà mệnh yểu

+ Nhan Tử: mưu lược tài ba nhưng không gặp thời

+ Đồng Tử: tài cao học rộng nhưng không được tin dùng

+ Nguyên Lượng: thơ văn lỗi lạc, học rộng, từ quan ở ẩn

+ Hàn Dũ: ngay thẳng mà mang họa

+ Liêm, Trạc: Triết gia không được trọng dụng, lui về dạy học

– Điểm chung của các nhân vật này: họ đều là những người có tài, có chí muốn hành đạo, giúp đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều không đạt được sở nguyện.

– Họ là những người đồng cảnh ngộ với Nguyễn Đình Chiểu: ông muốn giúp đời, lập nên nhiều công danh nhưng cuộc đời đầy bất hành, lại thêm thời thế đầy nhiễu nhương. Bởi thơ, đoạn thơ chính là niềm cảm thông sâu sắc tận đáy lòng của cụ Đồ Chiểu.

3. Tư tưởng và tấm lòng của tác giả

– Hai câu kết:

“Xem qua kinh mấy lần thi cử
Nửa phần lại ghét nửa phần thương.”

– Nghệ thuật tiểu đối -> nỗi “thương” và “ghét” ở đây, tuy nói chuyện sử sách nhưng ít nhiều đều phù hợp với chế độ thối nát của nhà Nguyễn và tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Thông qua lời ông Quán, Nguyền Đình Chiểu đã giãi bày tâm huyết của mình về lẽ ghét, tình thương với con người. Lời giãi bày đó thể hiện được quan điểm đạo đức yêu – ghét trước cuộc đời mà xuất phát của tình cảm đó là bởi vì cuộc sống của nhân dân. Bởi vậy có thế khẳng định tư tưởng cốt lõi của đoạn trích là ở tấm lòng yêu thương nhân dân sâu sắc, tha thiết của nhà thơ.

2. Giá trị nghệ thuật

– Bút pháp trữ tình nồng hậu

– Ngôn ngữ bình dị

– Sử dụng nhiều điệp từ “thương”, “ghét” ( mỗi từ 12 lần )

– Sử dụng phép đối, phép tiểu đối

Tìm hiểu văn bản: Bài ca ngắn đi trên bãi cát

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử – Cuộc đời

– Cao Bá Quát ( 1809 – 1855 ) tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mẫn Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội).

– Ông đã mất trong cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ phong kiến nhà Nguyễn.

b. Sự nghiệp văn học

– Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát (“Thần Siêu, Thánh Quát”).

– Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ảnh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.

– Tác phẩm còn lại: 1400 bài thơ, trên 20 bài văn xuôi, một số bài phú Nôm, hát nói.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường thi Hà Nội. Sau đó, ông nhiều lần vào kinh đô Huế thi Hội nhưng không đỗ.

– Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị.

b. Thể loại

– Bài thơ viết theo thể hành ( còn gọi là ca hành).

– Đây là một thể thơ cổ, có tính chất tự do phóng khoáng, không bị gò bó về số câu, độ dài của câu, niêm luật, bằng trắc, vần điệu.

c. Bố cục (3 phần)

– Phần 1 (4 câu đầu): hình ảnh đi trên bãi cát và người đi trên bãi cát

– Phần 2 (6 câu tiếp theo): tâm trạng suy tư của người đi đường

– Phần 3 (còn lại): sự bế tắt của người đi đường

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh bãi cát và con người đi trên bãi cát

– “Bãi cát dài lại bãi cát dài”: mênh mông dường như bất tận, nóng bỏng.

-> Hình ảnh tả thực, gợi con đường đi khó khăn, nhọc nhằn, xa xôi, mờ mịt.

-> Hình ảnh biểu tượng: con đường đầy khó khăn mà con người phải vượt qua để đi đến đích. Muốn tìm được cân lí, tìm được cái đích thực có ý nghĩa cho cuộc đời, con người ta phải trải qua vô vàn khó khăn, nhọc nhằn, thử thách.

– Mặt trời lặn: sự tối tăm, mù mịt

– Hình ảnh người đi trên bãi cát:

+ Đi một bước như lùi một bước: nỗi vất vả khó nhọc 

+ Không gian đường xa, bị bao vây bởi núi sông, biển

+ Thời gian: mặt trời lặn vẫn còn đi.

+ Nước mắt rơi -> khó nhọc, gian truân.

=> Cảnh con đường đi xa xôi mờ mịt, đó cũng chính là con đường đời, con đường đi đến danh lợi của kẻ sĩ. Người đi trên con đường đó, trầy trật khó khăn, đi tất tả, vội vã không kể thời gian, đi với tâm trạng đau khổ, mệt mỏi, chán chường.

2. Tâm trạng và suy nghĩ của lữ khách khi đi trên bãi cát

“Không học được….giận khôn vơi”

– Nhịp điệu đều, chậm, buồn: người đi tự giận mình không có khả năng như người xưa, mà phải tự hành hạ mình, chán nản mệt mỏi vì công danh – lợi danh. Đó là nỗi ngao ngán của kẻ sĩ đi tìm chân lí giữa cuộc đời mờ mịt.

– “Xưa nay phường….bao người”

+ Câu hỏi tu từ, hình ảnh gợi tả (hơi men)

-> Sự cám dỗ của danh lợi đối với con người. Vì công danh, lợi danh mà con người bôn tẩu ngược xuôi. Danh lợi cũng là thứ rượu thơm làm say lòng người.

=> Sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với phường danh lợi. Câu hỏi của nhà thơ như trách móc, như giận dữ, như lay tỉnh người khác nhưng cũng tự hỏi bản thân. Ông đã nhận ra tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, con đường công danh đương thời vô nghĩa, tầm thường.

“ Bãi cát dài…ơi…”

– Câu hỏi tu từ cũng là câu cảm thán thể hiện tâm trạng băn khoăn, day  dứt giữa việc đi tiếp hay dừng lại?

– Khúc đường cùng: ý nghĩa biểu tượng -> nỗi tuyệt vọng của tác giả. Ông bất lực vì không thể đi tiếp mà cũng không biết phải làm gì. Ấp ủ khát vọng cao cả nhưng ông không tìm được con đường để thực hiện khát vọng đó. Hay đó là niềm khao khát thay đổi cuộc sống.

– Hình ảnh thiên nhiên: phía bắc, phía nam đều đẹp nhưng đều khó khăn, hiểm trở.

– “Anh đứng làm chi trên bãi cát?..” câu hỏi mệnh lệnh cho bản thân -> phải thoát ra khỏi bãi cát danh lợi đầy nhọc nhằn chông gai mà vô nghĩa.

+ Nhịp điệu thơ lúc nhanh, lúc chậm, lúc dàn trả, lúc dứt khoát -> thể hiện tâm trạng suy tư của con đường danh lợi mà nhà thơ đang đi.

=> Hình tượng kẻ sĩ cô độc, lẻ loi đầy trăn trở nhưng kì vĩ, vừa quả quyết vừa tuyệt vọng trên con đường đi tìm chân lí đầy chông gai. 

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Bài thơ là sự chán ghét đối với con đường mưu cầu danh lợi tầm thường

– Tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ chưa tìm thấy lỗi thoát trên đường đời. Phê phán lối học thuật, sự bảo thủ trì trệ của triều Nguyễn.

2. Giá trị nghệ thuật

– Bài thơ giàu hình ảnh tượng trưng (bãi cát, quán rượu, người đi đường, mặt trời)

– Âm điệu bi tráng (vừa buồn, vừa có sự phản kháng, âm thầm, quyết liệt đối với xã hội lúc bấy giờ).

Tìm hiểu văn bản: Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử

– Nguyễn Công Trứ (1778-1858) người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

– Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp:

+ Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc

+ Nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt có lần còn bị giáng xuống làm lính thú,…

b. Sự nghiệp văn học

– Nguyễn Công Trứ sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm.

– Ngoài ra còn có sáng tác bằng chữ Hán: khoảng 50 bài thơ và 60 ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Được sáng tác sau 1848, khi ông đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do nhàn tản.

b. Thể loại

– Hát nói:  là thể tổng hợp giữa ca nhạc và thơ, có tính chấ tự do thích hợp với việc thể hiện con người cá nhân.

– Hát nói đã khá phổ biến từ các thế kỉ trước, nhất là cuối thế kỉ XVIII, song Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên đã có công đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.

c. Bố cục (3 phần)

– Phần 1 (6 câu thơ đầu): quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan

– Phần 2 (10 câu thơ tiếp): quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu

– Phần 3 (còn lại): quãng đời khi cáo quan về hưu

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm hứng chủ đạo

– Tập trung vào từ “ngất ngưởng”

+ Tên nhan đề

+ Lặp lại bốn lần trong bài thơ

-> Nghĩa đen: chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả

-> Nghĩa bóng: cách sống vượt lên trên những khuôn mẫu, gò bó. Thể hiện tính cách, thái độ cách sống ngang tàng của Nguyễn Công Trứ.

2. Quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan (sáu câu thơ đầu)

– “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: Đây là quan niệm mà ông đã nói nhiều bài thơ, cho rằng con người sinh ra do “ý của trời đất”, nên phải có trách nhiệm, phải gánh vác việc đời (những việc trong vũ trụ đều thuộc trong phận sự của ta).

– Trong Nguyễn Công Trứ, quan niệm ấy gắn liền với ý tưởng “tu, tề, trị, bình”, với chí làm trai và chủ nghĩa anh hùng mà ông đeo đuổi với tất cả lòng tin tưởng, lạc quan trong suốt cuộc đời.

– “Ông Hi Văn…vào lồng”:

+ Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng”-> diễn tả cuộc đời làm quan, coi thường danh lợi của Nguyễn Công Trứ-> cách nhìn mới mẻ, khác lạ so với nhà Nho đương thời

+ Coi nhập thế là việc làm trói buộc, làm quan sẽ mất tự do, gò bó nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng, hoài bão, trọn nghĩa vua tôi.

– Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:

+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược)

=> Tài năng lỗi lạc, xuất chúng: văn võ song toàn

+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên

=> Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang, văn vẻ toàn tài.

=> Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật chân thành của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất, năng lực và thái độ sống tài từ, phóng khoáng,  khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng. Hay thái độ sống của người quân tử bản lĩnh, kiên trì lí tưởng.

3. Quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu ( mười câu thơ tiếp theo)

– Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:

+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

+ Đi chùa có gót tiên theo sau.

=>  Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng

+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.

=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng

– Quan niệm sống:

+ “Được mất … ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian.

+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.

+ “ Không …tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục , sống thoát tục ⇒ sống không giống ai, sống ngất ngưởng.

=> Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả

4. Quãng đời khi cáo quan về hưu ( ba câu cuối )

 + “Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố, ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật,…

 + Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ.

+ Tự hào khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng.

+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”

=> Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Đó là thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do tự tại. Giữa cái xã hội mà mọi cá tính đều bị thủ tiêu thì cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân mà còn thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.

2. Giá trị nghệ thuật

– Vận dụng thành công thể hát nói

– Giọng điệu thơ hóm hỉnh, khoa trương, ý vị trào phúng

– Sử dụng điển tích, điển cố.

đăng ký w88, w88, nhà cái uy tín, đăng ký 8xbet, w88 chuẩn nhất, trang cá độ bóng đá, fb88, 8xbet, link vào fun88, lô đề trên mạng, đánh đề trên mạng, link vào fb88, link vào 8xbet, trang cá cược bóng đá uy tín, nhà cái ok vip, cá cược qua mạng, trang cá độ bóng đá uy tín, trang chủ w88, nhà cái uy tín nhất, link vào w88, đăng nhập 8xbet, đăng ký fun88, m88, link vào m88 mới nhất, link vào m88