Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
* Nhiệm vụ
– Động từ thường kết hợp với các từ đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, hãy, chớ, đừng,… để tạo thành cụm động từ.
– Chức vụ điển hình trong câu của động từ là vị ngữ. Khi làm chủ ngữ, động từ mất khả năng kết hợp với các từ đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, hãy, chớ, đừng,…
* Phân loại:
Trong tiếng Việt, có hai loại động từ đáng chú ý:
Trong đó:
– Động từ tình thái thường đòi hỏi động từ khác đi kèm.
– Động từ chỉ hoạt động, trạng thái không đòi hỏi động từ khác đi kèm.
+ Động từ chỉ hoạt động trả lời cho câu hỏi “Làm gì?”
+ Động từ chỉ trạng thái trả lời cho câu hỏi “Làm sao?” “Thế nào?”
2. Cụm động từ
* Cụm động từ là gì?
– Là loại tổ hợp từ do động từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. Nhiều động từ phải có các từ ngữ phụ thuộc đi kèm, tạo thành cụm động từ mới trọn nghĩa.
– Cụm động từ có ý nghĩa đầy đủ hơn và có cấu tạo phức tạp hơn một mình động từ, nhưng hoạt động giống như một động từ.
* Cấu tạo: Mô hình cụm động từ
Phụ trước => Động từ trung tâm => Phụ sau
* Nhiệm vụ
– Các phụ ngữ đứng trước có nhiệm vụ bổ sung các ý nghĩa về quan hệ thời gian, sự tiếp diễn tương tự, sự khuyến khích hoặc ngăn cản hành động, sự khẳng định hoặc phủ định hoạt động,… của động từ trung tâm.
– Các phụ ngữ đứng sau có nhiệm vụ bổ sung các chi tiết về đối tượng, hướng, địa điểm, thời gian, mục đích, nguyên nhân, phương tiện và cách thức hoạt động,… của động từ trung tâm.
Có cảnh tượng thương tâm nào hơn cảnh một em bé mồ côi mẹ chết cóng trong đêm giao thừa. Câu chuyện về “Cô bé bán diêm” của An – Đec – Xen đã đưa người đọc đến với đất nước Đan Mạch vào những năm giữa thế kỷ XIX nghèo đói, bần hàn. Đan Mạch là một nước nhỏ thuộc khu vực Bắc Âu, diện tích chỉ bằng một phần tám diện tích nước ta, thủ đô là Cô-pen-na-ghen. An-Đec-Xen là nhà văn nổi tiếng nhất của Đan Mạch.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
An-Đec-Xen (1805-1875) là nhà văn nổi tiếng nước Đan Mạch với loại truyện kể về trẻ em. Nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông hoàn toàn sáng tạo ra.
Nhiều truyện ngắn của An-Đec-Xen đã đi cùng tuổi thơ của biết bao em nhỏ khắp năm châu: Cô bé bán diêm, Nàng tiên cá, Nàng công chúa và hạt đậu…
Các truyện của ông nhẹ nhàng, tươi mát, toát lên lòng yêu thươn con người, nhất là những người nghèo khổ và niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Cô bé bán diêm” sáng tác năm 1845, ra đời vào thời điểm Am-Đec-Xen sáng tác nhiều nhất.
b. Tóm tắt: Cô bé bán diêm
Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người thương yêu em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm thứ tư: bà nội hiền từ của em hiện lên đẹp đẽ, gần gũi và phúc hậu biết mấy. Nhưng ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi.
c. Bố cục: 3 phần
Phần 1: Từ đầu… cứng đờ ra: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm
Phần 2: Tiếp theo… về chầu thượng đế: Những lần quẹt diêm của cô bé
Phần 3: Còn lại: Cái chết của cô bé bán diêm
II. Tìm hiểu văn bản
1. Cô bé trong đêm giao thừa
a. Gia cảnh của cô bé bán diêm
Mẹ chết, sống với người bố khó tính, bà nội – người yêu thương em cũng đã qua đời.
Nhà nghèo, sống “chui rúc trong xó tối tăm”. “trên gác sát mái nhà”, em “luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”.
Vì gia cảnh nghèo túng mà em phải đi bán diêm để kiếm sống.
b. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa
Ở đoạn đầu của tác phẩm, tác giả đã sử dụng rất thành công nghệ thuật đối lập – tương phản.
+ Trời đông rét mướp tuyết rơi >< cô bé thì “đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tôi”.
+ Ngoài đường thì lạnh buốt và tối đen >< nhưng “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”.
+ Em bé “bụng đói”, cả ngày chưa ăn uống gì >< mà “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.
Những hình ảnh đối lập tương phản có tác dụng rất lớn, nhằm làm nổi bật tình cảm hết sức tội nghiệp: rét, đói, khổ của em bé – đã rét lại càng rét hơn khi thấy “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”; đã đói lại càng đói hơn khi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.
Ngoài ra, hình ảnh “cái xó tối tăm” em sống chui rúc với bố hiện nay và “ngôi nhà xinh xắn có dây trưỡng xuân bao quanh” năm xưa khi bà nội em còn sống.
Hình ảnh tương phản này không chỉ làm nổi bật nỗi khổ về vật chất mà cả sự mất mát về chỗ dựa tinh thần của em bé vì chỉ có bà nội là người thương em.
Đến tận đêm vẫn không bán được bao diêm nào, vẫn không dám về vì sợ bố đánh.
=> Hoàn cảnh thật đáng thương. Chưa cần biết diễn biến của câu chuyện ra sao, chỉ nội một cảnh đầu tiên cũng đã gợi ra rất nhiều thương tâm, đồng cảm trong lòng người đọc.
c. Cảnh thực và những ảo ảnh
Đêm giao thừa cô đơn, ngập chìm trong tuyết lạnh, cô bé: “thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”, “lúc này đôi bàn tay” mỗi lúc lại “cứng đờ ra”.
Trong tình cảnh đó, cô bé đã nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”, để phần nào xua đi cái cô đơn lạnh cóng.
Câu chuyện được tiếp tục nhờ chí tiết lặp lại và biến đổi rất tự nhiên, hợp lý và thú vị qua chi tiết 5 lần cô bé quẹt diêm. Trong đó, cảnh thật và cảnh ảo đan xen nhau.
Lần thứ nhất:
+ Cảnh ảo: “Hiện ra lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.
=> Đó là hình ảnh tưởng tượng đầu tiên vì em đang rét cóng nên mơ ước đầu tiên, gần nhất ắt phải là cái lò sưởi. Điều mơ ước đó là thiết thực và hợp lý. Tuy nhiên, khi “em vừa duỗi chân ra sưởi thì ngon lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét, một mái nhà ấm cúng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé mà thôi.
Lần thứ hai:
+ Cảnh ảo: một bàn ăn sang trọng, thức ăn ngon lành tỏa mùi thơm ngào ngạt: “Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay”.
+ Cảnh thực: là khi que diêm vừa tắt thì “chẳng có bàn ăn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt…và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”
=> Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, bởi vì sau cái rét là cái đói. Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự ngăn cách đối với người khác.
Lần thứ ba:
+ Cảnh ảo: hiện ra một cây thông noel
+ Cảnh thật: vẫn không đổi.
=> Cây thông noel là mơ ước vui chơi trong đêm giáng sinh mới diễn ra cách đó 5,6 ngày. Cây thông noel đã làm em thèm thuồng thì giờ đây lại hiện ra trước mắt em và lại biến mất trong nháy mắt cùng với ánh lửa que diêm.
Lần thứ tư:
+ Cảnh ảo: Hình ảnh người bà đã mất xuất hiện, sống lại với nụ cười dịu dàng với dứa cháu mồ côi nhỏ bé, đáng thương. Em bé cất lời nói với bà để biểu hiện tình cảm nhớ thương bà, ước nguyện đi cùng bà.
+ Cảnh thật: vẫn không thay đổi.
=> Vì trong tình cảm của em bé mẹ và bà là những người thương yêu em nhất. Nó gắn với thực tế vì em đang rất cô đơn, bơ vơ, khao khát được yêu thương chăm sóc. Những biểu hiện đó để chuẩn bị hợp lý cho lần quẹt diêm thứ năm – lần cuối cùng.
Lần thứ năm – lần cuối cùng: Em quẹt diêm liên tục cho kỳ hết bao diêm để dẫn tới hình ảnh diêm nối nhau chiếu sáng như ban ngày:
+ Cảnh ảo: Hình ảnh bà nội hiện lên trong tưởng tượng chưa bao giờ to lớn, đẹp lão như thế. Em muốn níu giữ bà em lại với em. Em lại muốn bà em đi với em, em đi theo bà.
+ Cảnh thật: vẫn không đổi. Em đã chết vì rét trong đêm giao thừa.
Chỉ là một tưởng tượng, đây là giây phút em bé đã ra đi vĩnh viễn trong đói khát, rét mướt, trong niềm hy vọng tan biến.
5 lần quẹt diêm, 5 lần lặp lại và biến đổi, thực tại xen lẫn ảo ảnh, nối tiếp, trở đi trở lại, tất cả được sắp xếp và tưởng tượng tuyệt khéo gợi lên cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, tươi tắn của em bé đáng thương như một tiểu thiên thần.
Tác giả bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc của mình với em bé bất hạnh. Ngòi bút nhân ái và lãng mạng của nhà văn đã làm cho câu chuyện cảm động đau thương vẫn nhẹ nhàng đầy chất thơ.
Hình ảnh một em bé nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương, đáng trọng. Một con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời mà vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.
=> Em bé thật tội nghiệp. Người đời đối xử với em quá lạnh lùng, chỉ có bà và mẹ là yêu thương em nhưng đều đã qua đời. Cha em có lẽ vì quá nghèo khổ nên cũng đối xử với em thiếu tình thương; khách qua đường chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em nên em chẳng bán được bao diêm nào; những người nhìn thấy thi thể em vào sáng ngày mồng 1 tết cũng vô tình và lạnh lùng.
2. Một cảnh thương tâm
Ngày mồng một, người ta nhìn thấy thi thể em bé mồ côi ngồi giữa những bao diêm một cách vô tình, lạnh lùng.
Chỉ có cái nhìn đầy cảm thông cùng tấm lòng nhân hậu và lãng mạn của An-Đec-Xen mới có thể viết lại một câu chuyện thương tâm mà vẫn làm cho người đọc bớt đi cảm giác bi thương.
Cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng hình ảnh đối lập, tương phản rất đặc sắc: Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết.
Miêu tả một cảnh thương tâm về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của tác giả vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết, nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười. Rõ ràng, đến với những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn.
Trong cái xã hội thiếu tình thương, nhà văn An-Đec-Xen đã viết truyện này với tất cả niềm cảm thông, yêu thương đối với em bé bất hạnh. Nhưng rõ ràng, truyện ngắn “Cô bé bán diêm” là một cảnh tượng thương tâm.
Cái chết của cô bé là tiếng nói tố cáo xã hội mạnh mẽ, phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà văn kể chuyện thiên tài An-Đéc-Xen.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Qua số phận bất hạnh của em bé nghèo, chúng ta thấy được xã hội mà em sống, đó là một xã hội không có tình người. Đồng thời truyện còn có sức tố cáo xã hội; phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Câu chuyện còn toát lên niềm thương cảm của nahf văn đối với những em bé nghèo khổ. Vì thế, truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo.
2. Nghệ thuật
Tác giả thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập – tương phản. Những hình ảnh đối lập tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và ảnh ảo cứ sóng đôi hiện hiện, đan cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên.
Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phản, diễn biến hợp lý, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với em bé bất hạnh, lay động trong ta thình thương và niềm tin ở con người.
Ở tiết học trước, các em đã được tìm hiểu văn bản “Tức nước võ bờ” trích trong tiểu thuyết “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố. Dưới ngòi bút hiện thực của nhà văn, chúng ta đã hiểu được một phần nào hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8/1945 qua gia cảnh nhà chị Dậu. Trong xã hội đó, những người nông dân phải chịu một ách hai tròng, họ không chỉ chịu nội khổ về sưu thuế mà còn còn vô vàn những ách áp bức bất công khác. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thêm một nhân vật nông dân điển hình của xã hội đó, đó chính là tác phẩm Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
Nam Cao (1915 – 1951), quê làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn và truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người tri thức sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.
Sau cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường công tác ở vùng sau lưng địch.
Nam Cao được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Tác phẩm chất: Chí phèo (1941); Trăng sáng (1942); Đời thừa (1943); Lão Hạc (1943); Tiểu thuyết Sống mòn (1944);…
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ: Lão Hạc là một truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân của Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943.
b. Bố cục: 2 phần
Phần 1: Từ đầu … đáng buồn: Những việc làm của Lão Hạc trước khi chết
Phần 2: Còn lại: Cái chết của Lão Hạc
c. Tóm tắt đoạn trích “Lão Hạc” – Nam Cao
Lão Hạc là một lão nông nghèo trong làng. Vợ lão mất sớm, đề lại cho lão một đứa con trai và một mảnh vườn do bà cố công tích góp mãi mới mua được. Vì nghèo quá, lão không có tiền để cưới vợ cho con, con trai lão vì thất tình nên quyết tâm vào đồn điền cao su đi làm kiếm tiền để không bị người ta coi khinh nữa.
Vậy là một mình lão ở nhà với con Vàng (con chó của người con trai để lại), lão có một người hàng xóm tốt bụng là ông giáo. Chuyện gì của lão, lão cũng kể với ông giáo. Rồi lão bán con Vàng, được bao nhiêu tiền lão đưa hết cho ông giáo giữ để lo ma chay cho mình với để cho con trai lão. Lão gặp Binh Tư và xin ông ta một ít bả chó, vài ngày sau lão chết. Cái chết của lão rất đau khổ, vật vã, những cơn đau hành hạ lão tận hai giờ đồng hồ. Trong làng không ai hiểu vì sao lão chết, chỉ có ông giáo và Binh Tư mới hiểu.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Nhân vật lão Hạc
a. Gia thế của lão Hạc
Vợ lão mất sớm, nhà nghèo, lão phải chịu cảnh gà trống nuôi con.
Nhà nghèo, vì không đủ tiền cưới vợ cho con, con trai lão đã phẫn chí nên bỏ đi làm ăn xa, lão sống một mình và chỉ có con chó vàng làm bạn.
=> Lão Hạc sống một cuộc sống cô đơn, bất hạnh và đáng thương.
b. Trước khi bán chó:
Tình yêu thương của lão Hạc với cậu Vàng:
+ Lão Hạc gọi con chó vàng là Cậu vàng và xưng là ông đã thấy ông rất yêu quý nó.
+ Hằng ngày, lão chăm sóc nó không khác gì người cha, người ông, chăm chăm sóc người con, người cháu nhỏ (tắm, bắt giận, cho ăn bằng bát như nhà giàu), trò chuyện tâm tình thủ thỉ, gắp thức ăn cho nó như người bạn tâm giao ngồi nhắm rượu. Đôi lúc lão còn mắng yêu, dọa yêu như đứa cháu nhỏ: “bố mày về thì nó giết” rồi lại xoa dịu, nói nựng như dỗ dành “À không! À không! Không cho giết cậu Vàng đâu nhỉ! Ông để cậu Vàng ông nuôi…”
=> Có thể nói, tác giả đã dùng biện pháp độc thoại và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật hết sức thành công để làm nổi bật tình yêu thương sâu sắc của lão Hạc dành cho con chó Vàng. Qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân yêu thương loài vật.
Nguyên nhân bán chó: Có 3 nguyên nhân:
+ Sau trận ốm hai tháng mười tám ngày thì số tiền lão Hạc dành dụm cho đứa con trai đã tiêu hết vào việc mua thuốc và ăn uống.
+ Sau trận ốm đó, lão Hạc đã yếu người đi ghê lắm, không thể cày thuê, cuốc mướn được nữa mà việc nhẹ thì đàn bà tran nhau làm hết rồi. Lão rơi vào cảnh thất nghiệp, đói deo đói dắt, không thể có hai hào đến ba hào để đong gạo nuôi miệng thì làm sao nuôi được con chó, trong khi con Vàng ăn khỏe hơn lão, mỗi ngày phải mất hai hào mua gạo.
+ Trận bão kéo đến phá hết hoa màu trong vườn nên lão Hạc không có gì để bán. Nếu để con chó lại thì nnos sẽ không có ăn, nó sẽ gầy đi.
=> Như vậy, xuất phát từ tình thương con, thương loài vật, lão đành quyết định bán con chó mà lão yêu quý. Những lời lão Hạc tâm sự với ông giáo cho thấy lão thật đáng thương và cũng đáng trọng. Dù rơi vào hoàn cảnh đói khổ không còn cái ăn những trong lòng vẫn hướng về đứa con trai nơi xa cách.
c. Sau khi bán chó:
Lão cố làm ra vui vẻ nhưng trong tâm rất đau đớn: Cười như mếu, mắt ầng ậc nước.
Diện mạo, cử chỉ thì thật đáng thương: mặt co rúm lại, nếp nhăn xô lại, đầu nghẹo về một bên, miệng móm mém.
Tiếng khóc hu hu như một đứa trẻ oan ức điều gì đó.
Tự cho mình là kẻ khốn nạn, lừa con chó.
Tưởng tượng con chó đang kêu ư ử là đang chửi mình: “A! lão già tệ lắm! tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”
=> Đây là lời nói, hay chính là lời xám hối, lời tự thán, tự trách mình quá phũ phàng, tàn nhẫn của một tấm lòng nhân hậu. Từ nét ngoại hình quằn quoại đến những lời ăn năm, sám hối này, lão Hạc quả là một con người nặng tình, nặng nghĩa, thủy chung và vô cùng trung thực.
Nam cao đã sử dụng hàng loạt từ ngữ, hình ảnh để tả thái độ, tâm trạng của lão Hạc sau khi đã buộc lòng phải bán cậu Vàng.
+ Ầng ậc: nước mắt dâng lên sắp tràn ra ngoài mi – khóc từ trong gan, trong ruột, trong lòng khóc ra.
+ Khóc hu hu là cái khóc bình thường: hu hu khóc, tác giả đảo từ tượng thanh huhu lên trước “khóc” nhấn mạnh tiếng khóc của lão Hạc, lão khóc – tiếng khóc òa vỡ tức tưởi – tiếng lòng đau đớn xót xa, ân hận vì lão đã lừa dối cậu Vàng.
=> Tác giả đã lột tả được sự đau đớn, hối hận, xót xa, thương tiếc… tất cả đang trào lên, đang òa vỡ trong lòng một ông già giàu tình thương, giàu lòng nhân hậu. Nhà văn đã thể hiện thật chân thực, thật cụ thể và chính xác, tuần tự từng diễn biến tâm trạng đau đớn cứ dâng lên như không thể kìm nén nổi nỗi đau, rất phù hợp với tâm lý, hình dáng và cách biểu hiện của những người già.
=> Nam Cao thành công với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khắc họa tâm trạng của con người qua nét mặt, cử chỉ và lời nói. Qua đó, ca ngợi tấm lòng nhân hậu của một người nông dân nghèo khổ mà yêu thương loài vật như con đẻ của mình vậy. Đó chính là giá trị nhân văn của tác phẩm, khơi gợi được ở người đọc lẽ sống lương thiện, nhân ái.
=> Xung quanh việc bán chó, ta còn nhận thấy tình cảm đáng thương của những người nông dân trước cách mạng tháng tám: đói kém, nghèo khổ bởi nạn đói và thiên tai.
2. Cái chết của lão Hạc
Nguyên nhân dẫn tới cái chết của lão Hạc:
+ Nạn đói, thiên tai đưa lão Hạc rơi vào hoàn cảnh đói khổ, có khi ăn rau má, sung luộc, bữa trai, bữa ốc nhưng rồi tất cả những thứ đó cũng không còn, nên không thể tồn tại.
+ Lão có thể bán đi mảnh vườn để sống qua ngày nhưng lão quyết không bán, quyết định chọn cái chết.
=> Nguyên nhân là do đói khổ và thương con.
Thu xếp trước khi chết:
+ Viết văn tự gửi ông Giáo giữ hộ mảnh vườn để sau này con trai lão về có đất làm ăn.
+ Gửi ông giáo ba mươi đồng để khi có chết thì nhờ ông giáo và hàng xóm lo ma giúp.
=> Việc làm ấy của lão Hạc cho thấy là người giàu lòng tự trọng. Lão sống có trách nhiệm, lo lắng cho tương lai của con trai chứ không theo quan niệm của một số người “đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”. Lão không muốn trở thành gánh nặng của những người xung quanh vì lão biết họ cũng nghèo khổ, nheo nhóc như mình cả. Cách sống đó của lão thật đáng trân trọng.
Một cái chết dữ dội và đau đớn:
+ Lão Hạc chết thật bất ngờ; bất ngờ với tất cả. Sự bất ngờ của cái chết ấy càng làm cho câu chuyện thêm căng thẳng, thêm xúc động. Mâu thuẫn bế tắc được đẩy lên đỉnh điểm và kết thúc một cách bi đát và tất yếu.
+ Cái chết của lão Hạc thật dữ dội và kinh hoàng. Vì đó là cái chết do bị trúng độc bả chó.
+ Lão Hạc chết trong đau đớn, vật vã ghê gớm, cùng cực về thể xác: người giật mạnh, đầu tóc rũ rượi, bọt mép sùi ra, mắt long sòng sọc, miệng tru tréo, quần áo xộc xệch… vật vã gần hai giờ đồng hồ.
+ Lão Hạc đã chọn một cách giải quyết đáng sợ nhưng là một cách như để tạ lỗi cùng cậu Vàng.
Cái chết của lão Hạc có ý nghĩa thật sâu sắc:
+ Một mặt, góp phần bộc lộ rõ số phận và tính cách của lão Hạc, cũng như tính cách và số phận người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng tám: nghèo khổ, bế tắc cùng đường, giàu tình yêu thương và lòng tự trọng.
+ Mặt khác, cái chết của lão Hạc có ý nghĩ tố cáo hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến cách chúng ta hơn nửa thế kỷ – cái xã hội nô lệ tăm tối, buộc những người nghèo, đưa dẫn họ đến đường cùng. Họ chỉ có thể hoặc sa đọa, tha hóa, hoặc giữ bản chất lương thiện, trong sạch, tìm lại tự do bằng cái chết của chính mình.
3. Nhân vật ông Giáo – người kể chuyện
Ông Giáo là một người trí thức nghèo sống ở nông thôn, cũng là một người giàu tình thương, lòng tự trọng: Ông Giáo tỏ ra thông cảm, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc, tìm nhiều cách an ủi, giúp đỡ lão Hạc.
Ông Giáo rút ra triết lý về nỗi buồn trước cuộc đời và con người: Một mặt ông tỏ ra thông cảm với nỗi khổ tâm của vợ, vì sao mà vợ ông lại không chịu giúp đỡ lão Hạc. Mặt khác, ông Giáo buồn vì lòng tự ái của lão Hạc, của mình đều rất cao, nên hai người cứ xa nhau dần.
Khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, nghe câu nói đầy vẻ mỉa mai thì ông giáo nghĩ : Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn. Vì ông thất vọng trước sự thay đổi cách sống không chịu đựng được, đói ăn vụng, túng làm càn của một người trong sạch, đầy tự trọng đến như lão Hạc.
Nhưng cái chết bất ngờ và dữ dội của lão Hạc thì tâm trạng của ông Giáo lại chuyển biến. Ông nghĩ: Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, nhưng lại đnasg buồn theo một nghĩa khác:
+ Chưa hẳn đáng buồn vì vẫn có những cái chết đầy hy sinh và bi phẫn như cái chết của lão Hạc: Nhân tính vẫn chiến thắng, lòng tự trọng vẫn giữ chân con người trước bờ vực của sự tha hóa.
+ Nhưng đáng buồn theo một nghĩa khác: Những người tốt như lão Hạc, đáng thương, đáng trọng, đáng thông cảm cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc, vô vọng, vẫn phải tìm đến cái chết như là sự cứu cánh duy nhất.
=> Thông qua nhân vật ông Giáo, nhà văn bày tỏ những trăn trở suy nghĩ về lẽ sống và hiện thưc cuộc đời, hướng con người tới cái thiện, cái tốt đẹp.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương và phẩm chất cao quý của người nông dân cùng khổ trong xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta trước cách mạng tháng 8 – cái xã hội mà “Hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”.
Nhà văn đã thể hiện lòng thương yêu, thái độ trân trọng đối với những con người bất hạnh nhưng vẫn cao thượng chất phác, đôn hậu và đáng kính.
Các em đã được đọc và tìm hiểu 2 văn bản: Tôi đi học của Thanh Tinh và văn bản tự sự trữ tình, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là những văn bản viết dưới dạng hồi ký. Hôm nay, thầy và các em sẽ đi tìm hiểu một văn bản được sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán, phản ánh sâu sắc mâu thuẫn giai cấp giữa tầng lớp thống trị với những người nông dân nghèo khổ, khốn đốn trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó chính là văn bản “Tức nước vỡ bờ” trích trong tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả
Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê ở Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho, gốc nông dân. Một con người uyên bác trong nhiều lĩnh vực: nhà báo, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà phê bình nghiên cứu…
Là cây bút xuất sắc trong dòng Văn học hiện thực 1930 – 1945.
Là nhà văn hiện thực xuất sắc nhất chuyên viết về nông thôn Việt Nam trước cách mạng.
Tác phẩm chính: Tắt đèn (1939), Lều chõng (1940), Việc làng (1940)…
2. Tác phẩm
a. Vị trí đoạn trích
Tắt đèn (1939) là một bức tranh thu nhỏ của nông thôn VN TCM, đồng thời là bản án đanh thép đối với xã hội phong kiến thực dân tàn bạo ăn thịt người. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có giá trị nhân đạo với việc xây dựng thành công nhân vật chị Dậu – một hình tượng chân thực, đẹp đẽ về người phụ nữ nông thôn với những phẩm chất tốt đẹp. Cần cù, táo bạo, giàu lòng thương người, dũng cảm, chống lại bọn cường hào áp bức.
Tức nước vỡ bờ trích trong chương XVIII của tác phẩm được đánh giá là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho chủ đề của tác phẩm.
b. Bố cục: 2 phần:
Phần 1: Từ đầu … ngon miệng hay không?: Cảnh buổi sáng ở nhà chị Dậu
Phần 2: Còn lại: Cuộc đối mặt với bọn cai lên, người nhà Lý trưởng
c. Tóm tắt đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”
Được bà lão hàng xóm cho vay chút gạo chị Dậu liền nấu cháo cho anh Dậu ăn. Chị vừa múc bát cháo bưng lên cho chồng, anh Dậu còn chưa kịp ăn thì tên cai lệ và người nhà lí trưởng xông vào đòi bắt trói.
Ban đầu, chị Dậu vừa lo lắng cho chồng, vừa sợ hãi trước hành động cử chỉ của đám tay sai đã rất thiết tha van nài các “ông” tha cho chồng “cháu”. Nhưng lũ đầu trâu mặt ngựa vẫn hung hăng lao vào bắt trói anh Dậu. Nỗi tức tối đã chiến thắng nỗi sợ hãi, chị Dậu cãi lí: chồng tôi đau ôm các ông không được bắt. Những tưởng lí do rất chính đáng đó có thể ngăn cản hành vi mất hết nhân tính của bọn cai lệ và người nhà lí trưởng nhưng vô hiệu. Bị bọn chúng đánh lại, chị Dậu uất ức vùng lên thách thức: “Mày trói chồng bà, bà cho mày xem” và quật ngã cả hai tên tay sai.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Tình thế của gia đình chị Dậu
– Chị Dậu bị đẩy vào một tình thế thật thê thảm, đáng thương và nguy cấp:
+ Món nợ sưu nhà nước vẫn chưa có gì trả được.
+ Anh Dậu lại đang ốm rề rề vẫn có thể bị bắt, trói, đánh đập, hành hạ bất cứ lúc nào.
+ Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đua nhau từ phía đầu làng đến đình. Tiếng cho sủa vang cả xóm – âm thanh ghê sợ đó bủa vây chị Dâu, đe dọa chị,…
– Cháo chín, chị Dậu muốn để chồng ăn một chút cho đỡ đói vì anh Dậu nhịn suốt sáng hôm qua đến bây giờ.
– Anh Dậu uể oải, chống tay xuống phản. anh vừa rên vừa ngẩng đầu lên; run rẩy cất bát cháo lên miệng, cái lệ và người nhà lý trưởng sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước. => Tình mạng của anh Dậu đang bị đe dọa nghiêm trọng.
– Tất cả dồn nén lên đôi vai người đần bà đảm đang và dịu dàng, hiền hậu, rất tình nghĩa. Chị còn biết làm gì hơn nữa ngoài sự lo lắng, hy vọng cơ may và thấp thỏm chờ đợi.
=> Có thể coi đây là thế tức nước đầu tiên đã được tác giả xây dựng và dồn tụ. Qua đây thấy rõ chị Dậu yêu thương, lo lắng cho chồng mình như thế nào. Chính tình thương yêu này sẽ quyết định phần lớn thái độ và hành động của chị trong đoạn tiếp theo.
2. Nhân vật cai lệ
– Cai lệ là tên tay sai chuyên nghiệp mạt hạng của quan huyện, quan phủ. Nhưng về đến làng Đông Xá, nhờ bóng chủ, hắn tha hồ tác oai tác quái. Hắn hung dữ, độc ác, tàn nhẫn, tán tận lương tâm, chỉ biết làm theo lệnh quan thầy. Đánh trói, bắt người là nghề của hắn.
+ Chúng sầm sập tiến vào nhà chị Dậu với roi song, tay thước và dây thừng.
+ Thái độ, lời nói, cử chỉ cực kỳ thô bạo, vũ phu: Gõ đầu roi xuống đất, thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều sái cũ: “Thằng kia! Ông tưởng mà chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”
=> Đó là thái độ ra oai, hách dịch, thô bạo, vũ phu.
– Hắn bỏ ngoài tai những lời van xin thảm thiết của chị Dậu: không để cho chị Dậu nói hết câu, trợn ngược hai mắt và quát: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất”.
=> Thái độ hống hách, ngạo mạn ngày càng tăng lên
– Trước những lời thiết tha van xin của chị Dậu, cai lệ có thái độ:
+ Không những không thương xót mà hắn còn hằm hè đe dọa: “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ ông sẽ chở cả nhà mày đi”
+ Đùng đùng, hắn giật phắt cái dây thừng trong tay người nhà lý trưởng và sầm sập đến chỗ anh Dậu.
+ Hắn vừa nói vừa bịch vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.
+ Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.
=> Chân dung nhân vật cai lệ được khắc họa bằng những chi tiết: điệu bộ, giọng nói, hành vi. Ở đây, Ngô Tất Tố không dùng bất cứ một chi tiết nào để suy nghĩ của chúng. Bởi vì lũ đầu trâu, mặt ngựa xem việc trói người, đánh người là việc tự nhiên, chẳng bao giờ động lòng trắc ẩn thì làm gì biết suy nghĩ. Bỏ qua những chi tiết nội tâm, Ngô Tất Tố vừa làm nổi bật bản chất bất nhân, thất đức, bản chất cầm thú của bọn đầy tớ, tay sai, vừa tạo ra kịch tính căng thẳng cho mạch truyện.
=> Chỉ trong một đoạn trích ngắn, tác giả khắc họa thành cong nhân vật cai lệ, đó là một tên tay sai bất nhân, thất đức, bản chất cầm thú, hách dịch, hung hăng, độc ác. Hắn là điển hình sống động cho lũ tay chân củ bọn thực dân phong kiến thời bấy giờ. Hắn là một con thú đội lốt người, là công cụ đắc lực, giúp bọn thống trị thực hiện những chính sách tàn bạo đối với nhân dân ta.
3. Nhân vật chị Dậu
a. Người phụ nữ hiền thục, yêu thương chồng con
– Chị nấu cháo cho chồng để ăn lấy sức, chị múc cháo ra bát quạt nhanh cho cháo chóng nguội để chồng kịp ăn.
– Chị rón rén cẩn thận đến bên chồng và nói những lời nói dịu dàng âu yếm: “Thầy em cố ngồi dạy húp bát cháo cho đỡ xót ruột”.
– Chị ngồi bên cạnh chờ chồng chờ xem chồng mình ăn có ngon miệng không.
– Tuy nghèo khổ, phải ăn khoai, ăn sắn nhưng tình cảm vợ chồng của chị thật cảm động.
=> Cái nghèo cái đói không làm thay đổi bản tính vốn rất hiền hậu của người phụ nữ. Đó là nét đẹp đáng được trân trọng.
b. Chị Dậu đối phó với bọn tay sai
– Chị Dậu van xin tha thiết với thái độ lo sợ, lễ phép, hy vọng làm thức dậy lương tri của cai lệ:
+ Chị Dậu run run: Cháu – ông làm phúc
+ Chị vẫn tha thiết: cháu – ông (xin ông trông lại)
+ Chị Dậu xám mặt à Vội vàng đặt con xuống đất à Chạy đến đỡ lấy tay hắn: cháu van ông – ông tha cho.
– Bọn tai sai hung hãn đang nhân danh “phép nước”, “người nhà nước” để ra tay, còn chồng chị lại chỉ là kẻ cùng đinh đang “có tội” nên chị phải van xin. Chị cố gợi từ tâm và lương tri của “ông cai” với 1 hy vọng mong manh: may ra “ông cai” có động lòng trắc ẩn, thương mà cho khất sưu.
– Nhưng đến khi tên cai lệ không thèm nghe, để ý đến lời van xin tha thiết của chị, hắn đáp lại chị bằng những quả “bịch” vào ngực, “bốp” vào mặt chị và cứ xông đến chỗ anh Dậu, thì chị “liều mạng cự lại”: “Chồng tôi đâu ốm, ông không được phép hành hạ (không được phép)
=> Thái độ chị chuyển sang căm tức, đấu lý. Chị đang nói đạo lý tối thiểu của con người “ốm tha, già thải”.
– Thái độ phản ứng của chị Dậu ngày càng quyết liệt:
+ Chị Dậu nghiến hai hàm răng: “Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”. => Thái độ căm tức, khinh bỉ cao độ, chị thách thức và hành động chống trả quyết liệt.
+ Chị Dậu chống trả quyết liệt: Chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa – tên cai lệ ngã ra chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.
+ Chị Dậu vẫn chưa nguôi cơn giận: :Thà ngôi tù, để cho chúng nó làm tình tội mãi thế, tôi không chịu được” => Nêu cao tầm vóc lớn lao đáng kinh phục của chị.
– Chị Dậu đã thay đổi cách xưng hô và thái độ: từ thái độ van xin tha thiết, lễ phép sang thái độ bực tức, cự giải,đấu lí và phản kháng: Cách xưng hô: tư xưng hô: cháu – ông à tôi – ông à bà – mày.
– Vị thế của chị Dậu có bước nhảy vọt: Vị thế từ kẻ người dưới van xin kẻ bề trên sang ngang hàng đối thủ để đấu lý đến vị thế bề trên để căm giận, khinh bỉ và đè bẹp đối phương. Ngô Tất Tố đã chỉ ra một quy luật tất yếu: “con giun xéo mãi cũng quằn”, “có áp bức, có đấu tranh”, “tức nước ắt phải vỡ bờ”.
=> Qua đoạn trích, chúng ta thấy được phẩm chất, tính cách của chị Dậu: đó là một người phụ nữ nông dân rất tiêu biểu với bản tính hiền dịu, mộc mạc, giàu đức hy sinh, thương yêu chồn con hết mực, có tinh thần phản kháng mãnh luệt chống áp bức, đè nén, bóc lột.
III. Tổng kết
1. Nội dung
– Vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ, khiến họ phải liều mạng chống lại.
– Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương, vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
2. Nghệ thuật
– Khắc họa nhân vật rõ nét.
– Ngòi bút miêu tả linh hoạt, sống động.
– Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả của tác giả bà ngôn ngữ đối thoại của nhân vật đặc sắc.
Nguyên Hồng là một trong những nhà văn có một thời thơ ấu thật cay đắng, khốn khổ. Những kỷ niệm ấy đã được nhà văn viết lại với “rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại” trong tập tiểu thuyết tự truyện “Những ngày thơ ấu”. Kỷ niệm về người mẹ đáng thương qua cuộc trò chuyện với bà cô và cuộc gặp gỡ bất ngờ là một trong những chương truyện cảm động nhất.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Nguyên Hồng (1918 – 1982). Quê Nam Định.
– Trước cách mạng, ông sống chủ yếu ở Thành phố cảng Hải Phòng, trong một xóm lao động nghèo.
– Do hoàn cảnh sống cơ cực và gần gũi những người nghèo khổ nên ông được coi là nhà văn của những người lao động cùng khổ, lớp người dưới đáy xã hội.
– Nguyên Hồng thử ngòi bút của mình trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, thơ, nhưng thành công nhất vẫn là bộ ba tiểu thuyết sử thi nhiều tập. Ông được nhà nước truy tặng giải thưởng HCM về VHNT 1996
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
Tuổi thơ ấu trải qua nhiều cay đắng, gian khổ trở thành nguồn cảm hứng cho tác phẩm-hồi ký cảm động của Nguyên Hồng. Đăng trên báo năm 1938 và in sách 1940.
Tác phẩm gồm IX chương, “Trong lòng mẹ” là chương IV của tập hồi ký.
b. Ý nghĩa nhan đề:
Tên văn bản trước hết có ý nghĩa tả thực, gắn với một sự việc cụ thể: Hồng được gặp mẹ, được ngồi trong lòng mẹ, được mẹ yêu thương, âu yếm.
Song nhan đề văn bản còn mang ý nghĩa tượng trưng: “trong lòng mẹ” cũng là trong tình thương của mẹ.
Từ nhan đề văn bản, người đọc đã phần nào hiểu được tình yêu thương mẹ tha thiết, sự khao khát được sống trong tình mẹ của chú bé Hồng, một chú bé có tuổi thơ đầy cay đắng.
c. Bố cục: 2 phần
+ Phần 1: Từ đầu -> người ta hỏi đến chứ: Hoàn cảnh sống của bé Hồng.
+ Phần 2: Còn lại: Tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng khi bất ngờ gặp lại mẹ.
d. Tóm tắt tác phẩm “Trong lòng mẹ” – Nguyên Hồng
Chú bé Hồng có một tuổi thơ đầy bất hạnh: bố chết sớm vì nghiện ngập, mẹ vì cảnh cùng túng quá phải bỏ con đi tha hương cầu thực, chú sống với bà cô cay nghiệt. Một hôm, bà cô gọi Hồng đến và hỏi có muốn vào Thanh Hoá với mẹ không. Nhận ra vẻ mặt rất kịch và tâm địa độc ác của bà cô, Hồng nén lại niềm thương nhớ mẹ và trả lời không muốn vào. Nhưng bà cô vẫn cố tình kể chuyện mẹ Hồng khốn khổ, đã có con với người khác làm cho Hồng đau đớn, thương mẹ và căm phẫn những cổ tục đã đầy đoạ mẹ mình.
Gần đến ngày giỗ bố, trên đường đi học về, Hồng thấy bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ. Chú đã đuổi theo và khi nhận ra mẹ, Hồng đã oà khóc nức nở. Hồng cảm thấy sung sướng và hạnh phúc vô cùng khi được ở trong lòng mẹ. Hồng thấy mẹ vẫn đẹp như ngày nào. Chú đã quên hết mọi lời xúc xiểm của bà cô.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Nhân vật bà cô
– Nhân vật bà cô xuất hiện trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với đứa cháu ruột. Cuộc gặp gỡ do chính bà cô tạo ra để nhằm mục đích riêng của mình. Cử chỉ:
+ Cử chỉ đầu tiên của bà cô là “cười hỏi cháu: “Hồng, mày có…” nụ cười và câu hỏi có vẻ quan tâm và thương cháu.
+ Mọi người có thể lầm tưởng đây là một bà cô tốt bụng, thương đứa cháu mồ côi. Nhưng chính bé Hồng, bằng sự nhạy cảm của mình đã nhận ra ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của bà cô.
+ Rất kịch là rất giống người đóng kịch trên sân khấu, nhập vai, biểu diễn, nghĩa là rất giả dối, giả vờ.
– Sau lời từ chối của bé Hồng, bà cô hỏi luôn, mắt long lanh nhìn cháu chằm chặp và giọng vẫn ngọt: “Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm! có như dạo trước đâu!”.
+ Lời nói và cử chỉ này càng chứng tỏ sự giả dối và độc ác của bà cô. Bà vẫn tiếp tục đóng kịch, tiếp tục trêu cợt cháu, tiếp tục lôi đứa cháu vào trò chơi tai quái của mình.
+ Sau khi nhận thấy bé Hồng “im lặng cúi đầu”, “rưng rưng muốn khóc”, bà cô lại khuyên, lại an ủi, lại khích lệ, lại tỏ ra rộng lượng muốn giúp đỡ cháu: “Mày dại quá… thăm em bé chứ”. => giọng cô ngân dài ra thật ngọt, thật rõ.
=> Rõ ràng, bà cô đã biểu hiện sự săm soi, độc địa, cứ hành hạ, nhục mạ đứa bé tự trọng và ngây thơ bằng cách xoáy vào nỗi đau, nỗi khổ tâm của bé Hồng.
– Bà mặc kệ đứa cháu “cười dài trong tiếng khóc”, vẫn cứ tươi cười kể các chuyện về chị dâu mình, rồi lại đổi giọng, vỗ vai nghiêm nghị tỏ rõ sự thương sót anh trai.
+ Bà cô tỏ ra lạnh lùng, vô cảm trước sự đau đớn, xót xa đến phẫn uất của đứa cháu. Bà lấy sự đói rách, túng thiếu của chị dâu làm sự thích thú của mình.
+ Mỗi lúc, bà ta càng muốn làm cho đứa cháu đau khổ hơn, thê thảm hơn nữa. Khi đứa cháu đã lên đến tột cùng của sự đau đớn, bà ta mới tỏ ra ngậm ngùi, xót thương người đã mất. => Tất cả chỉ càng chứng tot sự giả dối, thâm hiểm đến trắng trợn, trơ trẽn của bà ta mà thôi.
=> Nhân vật bà cô là hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo hạng người tàn nhẫn đến khô héo cả tình cảm ruột thịt trong xã hội thực dân nửa phong kiến xưa và không phải không còn trong xã hội ngày nay. Hình ảnh bà cô gây cho người đọc sự khó chịu, căm ghét nhưng cũng chính là hình ảnh tương phản giúp tác giả thể hiện hình ảnh người mẹ và tình cảm của bé Hồng với mẹ mạnh mẽ và mãnh liệt hơn.
2. Nhân vật bé Hồng với những rung động cực điểm của một linh hồn bé dại
a. Hoàn cảnh của bé Hồng:
– Bố chơi bời, nghiện ngập rồi mất sớm.
– Mẹ bỏ 2 con đi tha hương cầu thực, gần năm trời không có tin tức gì.
– Hồng phải sống với bà cô lạnh lùng, thâm hiểm trong sự cô đơn tủi buồn.
=> Cô độc, đau khổ và luôn khao khát tình thương của mẹ.
b. Những ý nghĩ, cảm xúc của bé Hồng khi trả lời người cô
– Trước câu hỏi ngọt nhạt đầu tiên của bà cô, Hồng đã toan trả lời là có nhưng rồi lại “cúi đầu không đáp”. Bởi em sớm nhận ra sự giả dối trong giọng nói của bà cô. Im lặng, cúi đầu là để suy nghĩ, tìm kiếm một câu trả lời, một cách đối phó.
– Và em đã tìm được cách ứng xử thích đáng: Em cười và từ chối dứt khoát, nói rõ lí do một cách rất có lý tại sao lại dám từ chối lời đề nghị tốt đẹp của bậc bề trên: “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mẹ cháu cũng về”.
– Trước những câu hỏi, lời khuyên như xát muối vào lòng, chứa đầy sự mỉa mai chua cay, lòng bé Hồng thắt lại vì đau đớn, vì tủi nhục.
– Xúc động vì thương mẹ, thương thân, khiến khóe mắt em dã cay cay, rồi hai hàng nước mắt trào ra. Xúc động ngày càng tích tụ, càng trào dâng, dường như không thể kìm nén được.
– Tâm trạng đau đớn uất ức của chú bé dâng đến cực điểm khi nghe người cô kể về tình cảnh tội nghiệp của mẹ mình. Nguyên Hồng đã bộc lộ lòng căm tức tột cùng ở những giây phút này bằng các chi tiết đầy ấn tượng.
– Lời văn lúc này dồn dập với các hình ảnh, các động từ mạnh mẽ: “Cô tôi chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá như những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu hỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi.
c. Cảm giác sung sướng cực điểm khi ở trong lòng mẹ
– Tiếng gọi: Mợ ơi! Mợ ơi! cuống quýt, mừng tủi, xót xa, đau đớn, hy vọng; tiếng vang lên giữa đường thể hiện sự khao khát tình mẹ, gặp mẹ đang cháy sôi trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ mồ côi.
– Cảm giác của Hồng khi biết chắc chắn là mẹ “khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc”.
– Hình ảnh so sánh này đã cực tả nỗi khắc khoải mong mẹ của Hồng. Chú “khát” tình mẹ cũng như người bộ hành khát nước đến ngã gục giữa sa mạc. Chính vì thế mà khi gặp mẹ, Hồng xiết bao xung sướng và hạnh phúc:
+ Chú thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, khi trèo lên xe, ríu cả chân lại.
+ Nỗi vui mừng khi gặp lại mẹ khiến chú cứ cuống quýt, vội vàng như sợ mẹ sẽ tan biến đi.
+ Khi được mẹ “kéo tay”, “xoa đầu” thì hồng “òa lên rồi cứ thế nức nở”.
=> Giọt nước mắt lần này của Hồng khác hẳn với lần trước; đó là giọt nước mắt của dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện. Bao nhiêu tủi hờn, cay đắng, uất nghẹn tích tụ bấy lâu nay trong lòng chú đã được giải tỏa.
– Cảm giác sung sướng cực điểm của chú bé khi được nằm trong lòng mẹ được diễn tả cụ thể:
+ Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp sát đùi mẹ.
+ Đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi.
+ Tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt.
+ Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó mãnh liệt như vậy?
+ Lúc này dường như tất cả các giác quan của Hồng đều thức dậy để tận hưởng tình mẹ. Trong đầu có chú, những lời nói cay độc của bà cô hôm nào đã tan biến đi như một làn khói…
=> Chỉ một đoạn văn ngắn mà nhà văn đã sử dụng dồn dập nhiều động từ, tính từ, nhất là những danh từ cùng trường nghĩa: gương mặt, đôi mắt, nước da, gò má, đùi, cánh tay, da thịt, khuôn miệng… miêu tả vô cùng sinh động niềm hạnh phúc lớn lao tưởng như tới đỉnh điểm của tình mẫu tử. Đây thực sự là những cảm giác “mơn man” ngây ngất, đắm say và vô cùng êm dịu của quan hệ máu mủ, ruột thịt mà những đứa trẻ bất hạnh không dễ gì có được.
=> Có thể nói, những rung động cực điểm rất trẻ thơ đó của Hồng trong cuộc gặp gỡ bất ngờ với người mẹ đã nói lên tình yêu thương mãnh liệt của chú bé đối với người mẹ của mình. Điều đó là động lực để giúp chú vượt qua những cay đắng, tủi nhục trong cuộc sống để vươn lên và sống có ý nghĩa.
– Chất trữ tình thấm đượm ở tình huống và nội dung câu chuyện được kể: Nội dung cơ bản toát lên từ chương hồi ký này là: nỗi đắng cay uất nghẹn và tình yêu thương mãnh liệt của bé Hồng đối với người mẹ nhân từ, tần tảo mà cuộc đời đầy bất hạnh. Nội dung ấy được xây dựng, được ghi lại, kể lại với 2 tình huống truyện:
+ Tình huống thứ nhất: Cuộc trò chuyện của bé Hồng với bà cô.
+ Tình huống thứ hai: Mẹ bé Hồng trở về, cuộc gặp gỡ bất ngờ đầy nước mắt của niềm vui và hạnh phúc.
=> Dòng cảm xúc phong phú của chú bé Hồng: niềm xót xa tủi nhục, lòng căm giận sâu sắc, quyết liệt, tình yêu thương nồng nàn, thắm thiết của chú bé Hồng. Kết cấu của chương hồi ký hóa thành kết cấu của một áng văn thể hiện những xúc động trữ tình. Cho nên, nhịp điệu và giọng văn hồi ký của ông cũng thấm đẫm cảm hứng trữ tình. Không viết theo cách sắp đặt khôn ngoan, tỉnh táo, lý trí, mà để cho mạch văn chảy tràn theo mạch cảm xúc mãnh liệt, chân thành.
– Cách thể hiện của tác giả cũng góp phần quan trọng tạo nên chất trữ tình của chương hồi ký:
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể với bộc lộ cảm xúc: Nguyên Hồng không chỉ kể lại, thuật lại sự việc đã qua mà còn sống lại, hóa thân và những sự việc ấy. Các sự việc được kể lại, thuật lại cunxgc hỉ là để nhà văn giãi bày bộc bạch những tình cảm yêu thương, căm giận đang đầy ắp, cần được giải tỏa, phải nói to lên cho đã, cho thỏa.
+ Các hình ảnh thể hiện tâm trạng, các so sánh đều gây ấn tượng mạnh, đều giàu sức gợi cảm.
+ Lời văn nhiều lần say mê khác thường như được viết trong dòng cảm xúc mơn man, dạt dào.
III.Tổng kết
1. Nghệ thuật
– Hồi ký là một thể của ký, ở đó người viết kể lại những chuyện, những điều chính mình đã trải qua, chứng kiến.
– Đây là một chương tự truyện, hồi ký đậm chất trữ tình.
– Nhân vật: Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất: xưng tôi.
– Tình huống truyện phù hợp, đặc sắc, điển hình, có điều kiện bộc lộ tâm trạng cảm xúc.
– Kết hợp khéo léo, nhuần nhuyễn giữa kể – tả và biểu cảm.
– Các hình ảnh so sánh thể hiện tâm trạng, gây ấm tượng gợi cảm.
2. Nội dung
Trong lòng mẹ là chương hồi ký kể về cuộc đối thoại đau đớn giữa bé Hồng với bà cô và cuộc gặp gỡ đầy nước mắt vui mừng, hạnh phúc của chú bé với người mẹ đáng thương của mình.
Trong cuộc đời mỗi con người, những kỷ niệm thời học trò thường được lưu giữ lâu bền trong trí nhớ. Đặc biệt là những kỷ niệm về buổi đến trường đầu tiên. Tôi đi học của Thanh Tịnh là một truyện ngắn xuất sắc đã thể hiện một cách xúc động tâm trạng hồi hộp, bỡ ngỡ của nhân vật tôi, chú bé được mẹ đưa đến trường vào học lớp năm trong ngày tựu trường.
I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả
Thanh Tịnh (1911 – 1988), ông sinh ra ở bên bờ sông Hương, ngoại vi thành phố Huế. Yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến hồn thơ Thanh Tịnh.
Phong cách nghệ thuật: Thơ văn của Thanh Tịnh khai thác và thể hiện những vẻ đẹp trong sáng, đằm thắm: vẻ đẹp của tâm hồn.
Sự nghiệp văn học: Thử ngòi bút trên rất nhiều thể loại. Có sở trường và đóng góp nhất vẫn là thể loại truyện ngắn.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ: Trích trong tập truyện “Quê mẹ” – 1941. Tác phẩm gắn liền với cuộc đời Thanh Tịnh và trở thành một dấu ấn quan trọng trong hành trình nghệ thuật của ông.
b. Chủ đề: Tập trung thể hiện những trạng thái cảm xúc tinh tế, sâu sắc và rất đỗi thiết tha của tuổi học trò, gắn liền với ngày khai trường đầu tiên.
c. Phương thức biểu đạt: Được viết theo phương thức tự sự, có sự kết hợp với các yếu tố miêu tả, biểu cảm.
d. Bố cục:
– phần 1: Từ đầu … ngọn núi: Cảm nhận của tôi trên đường tới trường
– Phần 2: tiếp theo… nghỉ cả ngày nữa: Cảm nhận của tôi lúc ở sân trường
– Phần 3: Còn lại: Cảm nhận của tôi trong lớp học.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Cảm nhận của tôi trên đường tới trường
* Bối cảnh hồi tưởng:
– Thời gian: Cuối thu
– Thiên nhiên: Lá rụng nhiều; mây bàng bạc
– Cảnh sinh hoạt: Mấy em bé rụt rè cùng mẹ đến trường.
– Không gian: Trên con đường dài và hẹp
=> Làm cho tác giả mang một bầu tâm trạng: Náo nức, mơn man, tưng bừng, rộn rã đến khó tả. Việc tác giả sử dụng một loạt từ láy khi diễn tả góp phần cụ thể hóa tâm trạng, cảm xúc thực của “tôi” khi ấy, góp phần rút ngắn thời gian giữa quá khữ và hiện tại.
* Kỷ niệm trên đường tới trường:
– Hoàn cảnh:
+ Một buổi sớm mai đầy sương thu và gió lạnh.
+ Đi trên con đường dài và hẹp
Mùa thu nào mà chả có sương có gió, con đường làng bao đời nay vẫn dài, vẫn hẹp như vậy, tại sao nhân vật tôi lại nhớ kỹ, nhớ tỷ mỉ đến vậy. Bởi vì những cái thân quen hàng ngày đã bỗng chốc hoàn toàn thay đổi. Bởi tự trong chính lòng cậu đã có một sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
*Những thay đổi:
Mọi thứ đều thay đổi: từ con đường làng đến cảnh vật xung quanh.
Hôm nay không bơi qua sông để đi thả diều, để đi chơi cùng chúng bạn nữa, tôi đã dần khôn lớn, trưởng thành.
– Mặc một chiếc áo vải dù đen, dài trông hết sức trang trọng và đứng đắn. Trong tay ghì chặt hai cuốn vở => vụng về, non dại của tuổi ấu thơ.
2. Cảm nhận của “tôi” lúc ở sân trường
– Quang cảnh:
+ Đông vui và tấp nập: Sân trường hôm nay dày đặc người, ai cũng quần áo gọn gẽ, gương mặt thì tươi vui.
+ Trường Mĩ Lí cao ráo, sạch sẽ hơn các nhà trong làng; xinh xắn, oai nghiêm như đình làng => khiến tôi lo sợ vẩn vơ.
– Hình ảnh so sánh: lớp học như đình làng- nơi thờ cúng tế lễ thiêng liêng. => diễn tả cảm xúc trang nghiêm của tác giả về mái trường, đề cao tri thức của con người trong trường học.
– Các em học sinh tỏ ra đầy bỡ ngỡ và sợ sệt: khép nép sau lưng người thân, nhìn một nửa và đi từng bước nhẹ. Hình ảnh so sánh: “Họ như con chim non đứng bên bờ tổ… e sợ” => Miêu tả sinh động hình ảnh, tâm trạng các em nhỏ lần đầu tiên tới trường.
– Tiếng trống trường vang lên: Các anh chị lớp trên đã đi về lớp, sân trường thưa vắng hẳn đi. Khiến cho các cô bé, cậu bé cảm thấy vô cùng bối rối, không biết nên đi hay đứng, nên chân cứ co rồi lại duỗi, hết đi rồi lại đứng, không biết quyết thế nào. => Chung một cảm giác run run, lo sợ.
– Thầy hiệu trưởng điểm danh và dặn dò những học sinh mới:
+ Chúng hồi hộp, tim như ngừng đập trong khoảnh khắc chờ đợi, tên mình được đọc lên.
+ Giật mình, lúng túng khi thầy hiệu trưởng gọi đến tên mình.
+ Không ai dám lên tiếng trả lời thầy khi thầy hiệu trưởng hỏi đã nắm vững thông tin chưa?
+ Bị mọi người tập trung quan sát, lũ học trò trở nên bối rối, lúng túng hơn bao giờ hết.
=> Đó là nét tâm lý rất thường tình khi đang trong trạng thái lo lắng và hồi.
– Khi xếp hàng vào lớp:
+ Chân thấy nặng nề, không ai dám cất bước.
+ Ngoái lại đầy lưu luyến.
+ Một số cô bé, cậu bé thì ôm mặt khóc.
+ Nhân vật tôi như phản xạ, quay lại, ôm mẹ và gục vào lòng mẹ mà khóc
=> Những giọt nức mắt báo hiệu sự trưởng thành.
3. Tâm trạng của nhân vật tôi trong lớp học
– Lớp học là cả một thế giới xa lạ, khác biệt, cách biệt với thế giới bên ngoài khung cửa: mùi lạ, những bức hình lạ, người bạn mới tí hon đang ngồi cùng bàn với mình… cái gì cũng lạ lạ và hay hay.
– Cái cảm giác xa lạ và sợ hãi nhanh chóng bị xua đi mà thay vào đó là cảm giác hay hay, thích thích. Những đồ vật kia, những bàn, những ghế như là của riêng mình. Tất cả trở nên gần gũi và quen thuộc. Sự thay đổi nhanh đến ngạc nhiên.
– Ngoài kia khung cửa sổ: một con chim rụt rẻ hót vài tiếng rồi cất cánh bay, tạo lên một liên tưởng thú vị. Đó là những cô bé, cậu bé cũng như những chú chim non đã vượt qua những lo lắng, rụt rè để tuung cánh bay vào bầu trời tri thức.
– Cách kết thúc tự nhiên, bất ngờ: Dòng chữ “Tôi đi học” vừa khép lại bài và mở ra một thế giới mới, một khoảng không gian, thời gian mới, một tâm trạng, tình cảm mới, một giai đoạn mới trong cuộc đời đứa trẻ. Dòng chữ thể hiện chủ đề của truyện ngắn này.
4. Những nhân vật khác trong câu chuyện
4.1. Nhân vật người mẹ
– Mẹ nắm tay con, dắt con đến trường.
– Mẹ đã chuẩn bị cho con rất kỹ càng, chu đáo để con có đủ sách, vở, bút, áo, quần để con được đến lớp, không thua kém bạn bè.
– Âu yến trả lời những thắc mắc của con.
– Mẹ vỗ về, an ủi con, vuốt nhẹ mái tóc con rồi đẩy nhẹ phía lưng con để con thêm động lực bước vào đời.
4.2. Nhân vật thầy hiệu trưởng
– Giọng nói thì rất khẽ, dịu dàng.
– Dành cho học sinh những ánh nhìn ân cần, hiền hậu.
– Thầy an ủi, động viên, dặn dò bởi thầy rất hiểu tâm lý của học trò.
4.3. Nhân vật thầy giáo trẻ
– Đón chào các em bằng một nụ cười rất tươi. Trong nụ cười đó có cả sự độ lượng và yêu thương trong đó.
=> Cả xã hội đều dành sự yêu thương, chăm sóc cho trẻ em, cho sự nghiệp giáo dục của đất nước.
III. Tổng kết
1. Nội dung:
Văn bản Tôi đi học kể về một trang đời gần gũi mà thiêng liêng, đó là kỉ niệm buổi tựu trường đầu tiên với tâm trạng bỡ ngỡ, những cảm xúc mới mẻ, những ấn tượng không quên về trường lớp, thầy cô và bạn bè.
2. Nghệ thuật
Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật.
Với những hình ảnh so sánh vừa độc đáo, vừa gần gũi, trong sáng, dịu dàng diễn tả mọi cung bậc tình cam tinh tế nhất của con người.
Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, trong đó yếu tố biểu cảm đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
IV. Luyện tập
Tìm 5 câu có sử dụng biện pháp so sánh trong bài?
2. Viết bài văn ngắn ghi lại ấn tượng của em trong buổi đến khai giảng lần đầu tiên.
– Kim Lân quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn (nay là làng Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện (Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa,…) mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó.
– Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim…).
– Các truyện: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn… kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám – những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam – mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962).
– Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
2. Hoàn cảnh sáng tác
– Tác phẩm đề cập đến nạn đói năm 1945. Năm 1940 Nhật xâm chiếm Đông Dương bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay. Bọn thực dân sau khi thua ở Đông Dương thì ra sức bóc lột nhân dân để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mới, bọn cường hào địa chỉ ở nông thôn ngày càng ức hiếp dân lành. Mất mùa vì hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên. Bởi thế, đến xuân Ất Dậu năm 1945, nạn đói chưa từng có trong lịch sử đã cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta. Những cảnh chết đường chết chợ, tha phương cầu thực diễn ra hết sức thê lương. Trong hoàn cảnh đó, con người biết chia sẻ cho nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử đầy hào hiệp.
– Truyện ngắn Vợ nhặt tiền thân là một truyện dài nằm trong dự định của Kim Lân – tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Nhưng sau đó mất bản thảo, thất lạc và Kim Lân muốn dồn động lại nội dung ý tưởng trong một tập truyện ngắn, đó là lý do Vợ nhặt ra đời. Sau khi hòa bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết truyện ngắn này. Tác phẩm được hoàn thành ngay sau khi Cách mạng tháng 8 thành công. Truyện được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
3. Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân
Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
4. Ý nghĩa nhan đề Vợ nhặt
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
5. Tình huống truyện
– Tình huống truyện: Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
– Tình huống lạ, độc đáo: người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Nhân vật Tràng
– Tràng được khắc họa nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với: khuôn mặt hốc hác u tối, những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói hủy diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp.
– Tràng là dân lao động ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Anh xấu xí, thô kệch, hai con mắt nhỏ tí, cái đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu. Là người không bình thường, ngờ nghệch, vừa đi vừa nói, ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Ăn nói thô lỗ, chỉ là những câu đối đáp ngắn, thậm chí thô tục làm đếch gì có vợ.
– Là người hiền lành, vui vẻ nên trẻ con trong xóm rất mến anh. Trang nhân hậu, mời người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Tràng cho Thị ăn không phải vì để trả ơn hay lợi dụng mà vì sự cảm thông, vì tình người.
– Tràng nhặt vợ thật dễ dàng, chỉ bằng câu nói nửa đùa, nửa thật: này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Khi người phụ nữ quyết định theo mình, Tràng nghĩ: thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng. Cuối cùng anh quyết định liều lĩnh dẫn Thị về.
=> Nghĩa là anh khao khát có hạnh phúc gia đình, khao khát lứa đôi, điều mà trong hoàn cảnh bình thường, với Tràng chỉ là mơ ước.
– Mặc dù người vợ hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy Thị là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói: đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng. Tràng chậc lưỡi kệ cái đói, mua cho Thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn Thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình.
– Trên đường về nhà, thái độ của Tràng có nhiều khác lạ:
+ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Đó là niềm vui mộc mạc của người đàn ông nghèo, lần đầu được đi bên một người phụ nữ.
+ Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư: Tràng thấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình.
– Khi dẫn Thị vào nhà:
+ Xăm xăm bước vào trong nhà, dọn dẹp nhà cửa, thanh minh về cảnh nhà bừa bộn vì thiếu tay đàn bà.
+ Ngượng nghịu đứng ngây ra giữa nhà chợ mẹ về. Cũng vì Tràng và Thị chưa hiểu gì về nhau. Hơn nữa, Tràng sợ Thị đổi ý vì gia cảnh quá nghèo. Cũng có thể Tràng sợ mẹ không chấp nhận.
– Khi thấy mẹ về:
+ Tràng reo lên như một đứa trẻ, mờ mẹ vào trong nhà, trình bày ngắn gọn câu chuyện lấy vợ đặc biệt của mình và cũng là để xin phép mẹ. Và khi được mẹ đồng ý thì Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi… bước từng bước dài ra sân.
– Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.
– Chi tiết: Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt thay đổi cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Tràng thật sự phục sinh tâm hồn, đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
– Câu kết truyện: Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng Tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hy vọng hơn.
2. Nhân vật Thị
– Thị xuất hiện trong trang văn của Kim Lân không có tên, không có gia đình, quê hương, bị cái đói đẩy ra lề đường: Mỗi bận qua cửa nhà kho là thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra đấy. Họ ngồi đấy nhặt hạt vãi ra hay ai có công việc gì gọi đến thì làm.
– Với ngoại hình tố cáo rõ hiện thực cái đói và tội ác của bọn phát xít thực dân: Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
=> Thị chẳng khác gì con ma đói. Thị là nạn nhân của cái đói. Cái đói không chỉ tàn phá ngoại hình Thị mà còn cả tính cách. Cái đói ấy đã đẩy Thị trở nên chao chát, chỏng lọn, đanh đá, liều lĩnh, mất lòng tự trọng.
– Khi nghe Tràng hò, thị cong cớn, rồi vừng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến, rồi sưng sỉa nói. Thị lại gạ ăn: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở. Thị chỉ tin vào câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng, theo Tràng về làm vợ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc và những lời nói bông đùa, Thị theo không Tràng về làm vợ.
– Trên đường trở về nhà Tràng, nét dịu dàng của thị được trở lại. Thị có vẻ rón rén, e thẹn, vẻ cong cớn vừa nãy biến đâu mất: Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Khi biết xung quanh người ta đang nhìn đổ cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia.
– Về đến nhà Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh căn nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Thị thấy, Tràng cũng không hơn gì mình. Nhưng thị không chạy trốn. Có lẽ bởi khát khao một mái ấm gia đình. Thị ngồi mớm ở mép giường, lo âu, băn khoăn, lo lắng, hồi hộp, không biết bà cụ Tứ sẽ đối xử với mình ra sao. Nhưng khi cảm nhận được tình yêu thương của bà cụ, thị đã tự nhiên hơn được một chút.
– Buổi sáng hôm sau, thị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Có bàn tay thị căn nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa, đầm ấm hơn: Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
– Tràng nom thị hôm nay khá lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lọn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Thị chính là người thắp sáng trong Tràng niềm tin vào tương lai: Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Không chỉ thế, nhân vật Thị còn nâng cao giá trị tác phẩm ở phần kết.
=> Cùng viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám, nếu như Tắt đèn là hình ảnh chị Dậu chạy trong tắm tối, Chí Phèo khao khát được làm người giết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Các tác phẩm đều kết thúc tăm tối, không lối thoát của người nông dân. Nhưng với Vợ nhặt thì khác, Thị đã gợi đến chuyện người Bắc Giang không còn phải đóng thuế nữa, kết thúc tác phẩm là lá cờ đỏ sao vàng.
3. Nhân vật bà cụ Tứ
– Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nông thôn nghèo: Tài sản của bà chỉ mái nhà tồi tàn ở xóm ngụ cư, và đứa con trai khờ khạo.
– Hình dáng: Lọng khọng, xuất hiện vào một buổi chiều tàn tạ, trời nhá nhem của ngày đói cùng với tiếng húng hắng ho. Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngồi nhà của mình.
– Bà cụ Tứ là một người mẹ nhân hậu, vị tha, giàu yêu thương: Niềm khao khát mong ước duy nhất của người mẹ là hi vọng con mình có vợ. Nhưng vì cái nghèo quẩn quanh, đeo bám mà bà không có tiền cưới vợ cho con, điều này luôn là nỗi áy láy thường trực trong trái tim người mẹ. Khi anh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, tâm lí bà cụ đã có những thay đổi liên tục.
– Bà cụ Tứ là một người mẹ bao dung và thấu hiểu cuộc đời:
+ Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao nhiêu thì bà thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.
+ Diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ nhặt của đứa con, cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến cho người ta cảm phục: Nhà ta nghèo, liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.
=> Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận người vợ mới của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.
+ Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu cố gắng. Chi tiết này cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo vơi một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình này.
+ Hình ảnh nồi cháo cám ngày đói mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị như nó vẫn mang, nó hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hy sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp vạn lần.
– Bà cụ Tứ là một người mẹ rất biết lạc quan: Bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.
III. Nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.
– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.
– Ngôn ngữ: Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.