Home Blog Page 2

Tìm hiểu văn bản: Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Lai lịch

– Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1932 tại Quảng Nam. Ông có bút danh là Nguyên Ngọc.

– Ông là nhà văn trưởng thành trong cả kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

– Ông gia nhập quân đội năm 1950, hoạt động chủ yếu và gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên.

– Sau Hiệp định Genever ông làm phóng viên và tập kết ra Bắc. Năm 1962 ông trở về Nam vừa tham gia chiến đấu vừa hoạt động văn nghệ.

– Sau chiến tranh ông làm Phó Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam và Tổng Biên tập báo văn nghệ.

– Hiện nay ông vẫn tham gia hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục và đã dịch một số tác phẩm lý luận văn học.

b. Phong cách nghệ thuật

Các tác phẩm của ông mang đậm âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn:

– Ở đó, chất thơ hoà quyện với độ hoành tráng của núi rừng Tây Nguyên, của  những người anh hùng cách mạng bất khuất, kiên trung với quê hương, đất nước.

– Sức sống bất diệt và khả năng trỗi dậy phi thường của con người, sự sống  luôn được đề cao trong tác phẩm của ông.

c. Tác phẩm chính  

Đất nước đứng lên (1954-1955); Mạch nước ngầm (1960); Rẻo cao (1961); Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1961); Đất Quảng; Rừng xà nu (1965); Cát cháy…

=> Nguyễn Trung Thành là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị và ghi dấu ấn đậm nét trong nền văn học nước nhà.

2. Tác phẩm

a. Tóm tắt

Sau ba năm tham gia lực lượng cách mạng, Tnú được về thăm làng. Trong đêm ấy, cụ Mết kể lại cho dân làng nghe về câu chuyện của Tnú. Tnú mồ côi từ nhỏ, được dân làng nuôi lớn và sớm tiếp nối tinh thần cách mạng. Tnú tham gia nuôi giấu chiến sĩ cách mạng và làm liên lạc. Tnú vốn là một cậu bé thông minh, can đảm và gan dạ: “chọn nơi rừng khó đi, nơi sông khó qua” để tránh kẻ thù. Lúc bị bắt dám thách thức quân giặc “nuốt vội lá thư và chỉ tay vào bụng mình”. Tnú bị bắt, bị tra tấn dã man nhưng nhất định không khai. Sau khi ra tù, Tnú về làng cưới Mai và cùng dân làng chuẩn bị chiến đấu. Nghe tin đó, thằng Dục – tay sai của chính quyền Mỹ – Diệm đưa lính đến đàn áp. Không bắt được Tnú chúng đem vợ con anh ra đánh đập đến hết. Tnú đau xót xông ra nhưng không cứu được vợ con mà còn bị chúng thiêu đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa cây xà nu. Trong khi đó cụ Mết cùng dân làng mang vũ khí cất giấu trong rừng trở về và chiến đấu thắng lợi. Tnú gia nhập giải phóng quân và chiến đấu dũng cảm nên được cấp phép về thăm làng. Cụ Mết tự hào kể về anh cũng như nhắc nhở bài học xương máu: ”Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cuối truyện là hình ảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú về đơn vị, xa xa là những rừng xà nu, đồi xà nu bạt ngàn, chạy tít tắp đến chân trời.

b. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

– Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965 và in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.

– Truyện được viết khi tác giả đang tham gia chiến đấu chống Mỹ cứu nước và hoạt động trên chiến trường Tây Nguyên anh hùng.

c. Bố cục

– Phần 1 (phần chữ nhỏ): Tnú sau ba năm theo cách mạng giờ về thăm làng.

– Phần 2 (còn lại): cụ Mết kể câu chuyện về cuộc đời của Tnú và người dân làng Xô Man.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình tượng cây xà nu

– Cây xà nu là hình tượng bao trùm, là mạch sống mạch hồn của tác phẩm. Khi cầm bút sáng tác thiên truyện này, hình ảnh đầu tiên hiện về trong tâm trí ông là cây xà nu, những cánh rừng xà nu. Hình tượng thiên nhiên ấy đã trở thành chủ âm của tác phẩm, nó chiếm giữ những vị trí quan trọng nhất của truyện ngắn: nhan đề, mở đầu và kết thúc. Hình ảnh cây xà nu còn trở đi trở lại nhiều lần tạo nên không gian đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên.

– Cây xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống con người Tây Nguyên. Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm là một loài cây đặc thù, tiêu biểu cho vùng đất Tây Nguyên. Qua hình tượng cây xà nu, nhà văn đã tạo dựng được hình ảnh hùng vĩ và hoang dã mang đậm màu sắc Tây Nguyên cho câu chuyện.

– Cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống của dân làng Xô Man, có mặt trong đời sống hàng ngày của dân làng. Lửa xà nu cháy dần dật trong mỗi bếp, trong đống lửa của nhà ưng tập hợp dân làng, khói xà nu xông bảng nứa để Tnú và Mai học chữ. Khi Tnú trở về đơn vị, cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu cạnh con nước lớn.

– Cây xà nu còn tham gia vào những sự kiện trọng đại của dân làng: ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng lấy giáo, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ chuẩn bị nổi dậy. Mười ngón tay Tnú bị đốt vì giẻ tẩm nhựa xà nu, và chính vì cảnh tượng đau thương ấy dân làng đã nổi dậy để đống lửa xà nu lớn giữa nhà soi rõ xác mười tên lính giặc nằm ngổn ngang.

– Cây xà nu cũng đã thấm sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ của người Tây Nguyên. Tnú cảm nhận về cụ Mết ngực cụ căng như cây xà nu lớn. Trong câu chuyện về Tnú, cụ Mết cũng nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào: Không có gì mạnh bằng cây xà nu nước ta, cây xà nu đã trở thành máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của con người Tây Nguyên.

– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng. Ta có thể thấy ý đồ nghệ thuật này khi tác giả miêu tả song hành hai hình tượng cây xà nu và những con người Tây Nguyên.

+ Thứ nhất, thương tích của rừng xà nu do đại bác của giặc gây ra tượng trưng cho những mất mát đau thương vô bờ mà người dân Tây Nguyên phải chịu đựng. Nếu rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương thì con người Tây Nguyên cũng vậy. Những câu xà nu con bị đại bác chặt đứt làm đôi thì tượng trưng cho những đứa con của Tnú và Mai. Còn những cây xà nu trưởng thành đại bác không giết nổi chúng thì cũng giống như Tnú và Dít, những con người trưởng thành từ những đau thương mất mát của chiến tranh.

+ Thứ hai, cây xà nu có đặc tính ham ánh sáng, đặc tính ấy tượng trưng cho niềm khát khao tự do của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết ít có loài cây nào ham ánh sáng mặt trời đến thế… Con người Tây Nguyên cũng vậy, luôn khao khát tự do, mặc dù bọn giặc đã giết bà Nhan, anh Xút và cả anh cán bộ Quyết nhưng Tnú và Mai vẫn kiên trì nuôi giấu cán bộ.

+ Thứ ba, khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu và sự rộng lớn của rừng xà nu giúp ta gợi liên tưởng đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết: Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy, cạnh một cây xà nu mới ngã đã có bốn, năm cây con mọc lên xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Làng Xô Man cũng có những thế hệ tiếp nối như vậy: cụ Mết là cây xà nu lớn. Tnú, Mai và Dít là những cây xà nu trưởng thành và bé Heng là cây xà nu con rắn rỏi.

+ Thứ tư, sự tồn tại của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt và khả năng vươn lên mạnh lẽ của con người Tây Nguyên trong chiến đấu.

– Hình tượng rừng xà nu có quan hệ mật thiết với hình tượng nhân vật Tnú. Hai hình tượng này không tách rời nhau mà gắn bó khăng khít với nhau. Rừng xà nu không thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt khi con người chưa thấm thía bài học chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo.

=> Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm tượng trưng cho vẻ đẹp hào hùng đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Qua đó, chất thơ và chất sử thi hòa làm một thể hiện rõ phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành: vừa say mê, vừa trầm tư, vừa giỏi tạo hình vừa giàu tính khái quát.

2. Hình tượng các nhân vật trong tác phẩm

a. Nhân vật Tnú

– Trong dụng ý nghệ thuật của mình, nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn nói: Rừng xà nu là truyện của một đời được kể trong một đêm. Người mà cuộc đời được kể trong một đêm ấy chính là Tnú.

– Tnú là người trung thành với cách mạng:

+ Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng Xô Man nuôi dưỡng, tham gia vào việc nuôi giấu cán bộ cách mạng và luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều đêm Tnú phải ngủ trong rừng vì sợ lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy.

+ Nghe anh Quyết học chữ, Tnú lấy trẻ nứa làm bảng. Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn. Trong lúc học chữ, Tnú tỏ ra tối dạ, học hoài không nhớ nên tự lấy đá đập vào đầu chảy máu nhưng chỉ một lời động viên của anh Quyết thì Tnú lại càng quyết tâm.

– Gan dạ, dũng cảm và mưu trí:

+ Đi liên lạc, Tnú không bao giờ chịu đi đường mòn. Giặc vây các ngả, Tnú nhìn quanh một lượt xé rừng mà đi. Qua sông, Tnú không lựa chỗ nước êm, mà cứ lựa chỗ thác mạnh để bơi ngang vì Tnú biết rằng qua chỗ nước êm, thằng Mĩ Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không không ngờ.

+ Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt thư vào bụng, chấp nhận bị tra tấn chứ không khai. Khi bị giặc đốt mười đầu ngón tay, Tnú không hề kêu than mà cắn răng chịu đựng.

– Tnú là người yêu thương bản làng:

+ Sinh ra giữa núi rừng Tây Nguyên, Tnú rất yêu thương bản làng của mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về, Tnú vô cùng xúc động. Anh nhớ từng hàng cây, con đường, dòng suối mát và nhớ nhất là tiếng chày giã gạo.

– Tnú rất yêu thương vợ con:

+ Tnú yêu Mai bằng một tình yêu chân thành và mãnh liệt vì nó bắt nguồn từ tình bạn bè, tình đồng chí. Khi trở về làng, nhìn gốc cây xà nu, những kỉ niệm thời thơ ấu lại ùa về những kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như một nhát dao.

+ Ngày con Tnú chào đời, vì bận công tác, Tnú không đi Kon Tum mua vải con con được, anh phải xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm chaonfg cho Mai địu con.

+ Vì bí mật cách mạng, Tnú buộc phải núp sau một cây vả để chứng kiến kẻ thù man rợ dùng cây sắt đánh đập, tra tấn dã man vợ con anh. Tnú đau đớn dữ dội nhưng anh không làm gì được, tay anh bứt hàng chục trái vả mà không hề hay biết. Khi nghe tiếng con ré lên rồi im bặt, căm thù dồn nén không chịu được nữa, anh lao vào lũ giặc với thiết thét lớn. Rồi anh hành động thật đẹp: Anh dang hai cánh tay rộng lớn như lao cánh lim chắc ôm lấy mẹ con Mai, mặc dù anh hiểu rằng sẽ bị giặc bắt và giết chế. Tnú không cứu được hai mẹ con Mai vì anh chỉ có hai bàn tay không.

– Tnú căm thù giặc:

+ Tnú mang trong tim ba mối thù: Mối thù bản thân, lưng Tnú dọc ngang vết dao giặc chém, mười đầu ngón tay bị đốt; mối thù của gia đình, vợ con chết thảm dưới cây roi sắt của giặc; mối thù buôn làng, Tnú không bao giờ quên hình ảnh những cánh rừng xà nu bị tàn phá, những người dân vô tội bị sát hại.

+ Khi nhìn cảnh vợ con bị giặc tra tấn, căm thù dồn nén đã biến đôi mắt anh thành hai cục lửa lớn.

+ Khi giặc đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu, ngay lập tức mười ngón tay Tnú thành mười ngọn đuốc. Anh không cảm thấy lửa mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Tnú thét lên một tiếng, tạo thành sức mạnh căm hờn để dân làng Xô Man vùng lên giết sạch kẻ thù.

+ Tnú dùng chính đôi bàn tay thương tật của mình để cầm súng, để trả thù nhà, trả nợ nước.

– Tnú có tính kỉ luật cao:

+ Ba năm đi bộ đội, Tnú rất nhớ nhà, nhớ quê hương. Được cấp trên cho phép về một đêm và anh cũng chỉ về một đêm đúng như quy định.

– Ý nghĩa đôi bàn tay của Tnú:

+ Bàn tay dám cầm đá đập vào đầu để trừng phạt mình vì học hay quên. Bàn tay đã từng đặt lên bụng mình và nói với giặc cộng sản đây này. Bàn tay ấy cũng đã từng che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của giặc.

+ Bàn tay Tnú là bàn tay của sự hận thù, vì bàn tay ấy đã thành thương tật do giặc Mĩ gây ra. Dù thương tật, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm súng trả thù nhà, nợ nước.

=> Câu chuyện về cuộc đời và con đường của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Với nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành tiếp tục khẳng định sự thành công của mình khi viết về đề tài Tây Nguyên.

b. Nhân vật cụ Mết

– Ngoại hình:

+ Ngoài sáu mươi tuổi mà vẫn khỏe mạnh.

+ Bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt.

+ Râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng.

+ Mắt sáng và xếch ngược.

+ Ngực căng như một cây xà nu lớn.

– Tính cách:

+ Là một già làng có uy tín, khi cụ nói mọi người đều im bặt, đặc biệt cụ không bao giờ khen tốt, giỏi, vừa ý lắm thì cụ nói được.

+ Có kinh nghiệm trong chiến đấu, cụ biết khi nào là phải nhẫn nhịn, là khi mình chỉ có hai bàn tay không (cụ không cho Tnú nhảy vào khi bọn lính đang đánh đập Mai) nhưng cụ lại kịp thời lãnh đạo giết chết mười tên lính.

+ Cụ giáo dục lòng yêu nước và tinh thần cho dân làng Xô Man: Đảng còn, núi nước này còn. Cụ dạy cho dân làng Xô Man chống giặc Mĩ bằng con đường vũ trang: chúng nó cầm súng, mình cầm giáo.

– Tình yêu quê hương bản làng:

+ Cụ rất tự hào về bản làng, về con người Strá, cụ nói: Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng này đấy. Yêu quê hương bản làng, cụ nuôi dấu cán bộ và quyết cùng dân làng Xô Man đấu tranh bảo vệ buôn làng Tổ quốc.

+ Cụ yêu thương dân làng tha thiết: Nhường muối cho người đau. Gặp lại Tnú sau ba năm xa cách, cụ vừa vui vừa cảm động và đãi Tnú ăn những món ăn đặc biệt của bản làng.

c. Nhân vật Mai

– Là một người phụ nữ thông minh, dịu dàng, thủy chung và kiên cường.

– Thuở nhỏ, Mai đã là giao liên cùng Tnú vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai thông minh học chữ giỏi.

– Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai dũng cảm lấy thân mình bảo vệ cho đứa con và kiên quyết không khai một lời nào với giặc.

d. Nhân vật Dít

– Thuở nhỏ là một cô bé can đảm, nhanh nhẹn.

– Ngày làng bị khủng bố, Dít bò theo máng nước vào rừng để tiếp tế lương thực cho bộ đội, bị giặc bắt, giắc bắn dọa: đạn sượt qua tai, sém tóc. Dít khóc thét lên nhưng đến viên thứ mười, nó im lặng và bình thản nhìn bọn giặc.

– Dít căm thù giặc thật là lạnh lùng: Ngày Mai chết cả làng đều khóc, cụ Mết và Tnú khóc, riêng Dít không khóc, mà dồn nén yêu thương để nung nấu căm thù bằng cách dã gạo để Tnú đi trả thù cho chị.

– Cô lớn lên trở thành một chi bộ thật vững vàng, nhiệt huyết, công tư rất rõ ràng. Ngày Tnú về thăm làng, cô rất mừng nhưng vẫn hỏi giấy phép.

e. Nhân vật bé Heng

– Là một cậu bé lầm lì, ít nói và là một du kích giữ làng tốt.

– Bé Heng rất rành hầm chông hố chông của làng mình.

=> Nhà văn đã khắc họa rất thành công hình ảnh một tập thể anh hùng của làng Xô Man. Rừng xà nu là một bước tiến xa so với Đất nước tiến lên ở tầm khái quát, sự chọn lọc và dồn nén những cảm xúc.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

Đây là chuyện của một đời người được kể trong một đêm. Đồng thời đó cũng là chuyện về những con người ở một bản làng Tây Nguyên, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận. Qua đó, tác giả đặt vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của nhân dân và đất nước mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.

2. Giá trị nghệ thuật

– Đặc sắc, đậm đà chất sử thi hùng tráng:

 + Đề tài có ý nghĩa lịch sử: Cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man

  + Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng. Rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc “Cả rừng … ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng”, ….

+ Các nhân vật tiêu biểu được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng  vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên vừa mang phẩm chất của anh hùng  thời đại: Tnú, Dít, Heng,…

+ Giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng, mang đậm sắc màu Tây Nguyên.

 – Kết cấu vòng tròn: mở đầu, kết thúc là hình ảnh rừng xà nu.

 – Cách thức trần thuật: kể theo hồi tưởng qua lời kể của cụ Mết (già làng), kể bên bếp lửa gợi nhớ lối kể ” khan”- giống sử thi của các dân tộc Tây Nguyên.

Tìm hiểu văn bản: Sóng – Xuân Quỳnh

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Xuân Quỳnh sinh năm 1942, mất năm 1988, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

– Quê quán: La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội)

– Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội

– Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa của Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III

– Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước

– Năm 2007, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

– Phong cách thơ: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.

– Tác phẩm chính: Tơ tằm – Chồi biếc (in chung), Hoa dọc chiến hào, Gió Lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Hoa cỏ may, Bầu trời trong quả trứng, truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

– Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tê ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh

– Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào

b. Bố cục( 4 phần):

– Phần 1 (khổ 1+2) : Sóng – Khát vọng tình yêu của người con gái.

– Phần 2 (khổ 3+4) : Ngọn nguồn của sóng – Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.

– Phần 3 (khổ 5+6+7) : Sóng – Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.

– Phần 4 (Khổ 8+9) : Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Sóng – Khát vọng tình yêu của người con gái.

– Hình tượng sóng bao trùm, xuyên suốt bài thơ. Sóng được miêu tả cụ thể, sinh động với nhiều trạng thái mâu thuẫn (lúc dữ dội, ồn ào, lúc lặng lẽ,…) gợi ra vẻ đẹp của thiên nhiên mênh mông.

– Đồng thời sóng cũng được miêu tả có hồn, có tính cách, tâm trạng, mang ý nghĩa biểu tượng. Sóng là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho tâm hồn, tính cách của người phụ nữ đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Sóng song hành cùng em, tuy hai mà một, có lúc phân chia, có lúc hòa nhập nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn khát vọng tình yêu của nhà thơ.

– Sóng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Âm điệu bài thơ dạt dào, thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt, kết cấu trùng điệp, bài thơ gợi ra nhịp điệu của sóng biển sôi nổi, dạt dào, lúc dịu êm, sâu lắng. Đó cũng là nhịp điệu của sóng lòng đang tràn ngập khát khao tình yêu.

– Tác giả mượn hình ảnh sóng để nói và nghĩ về tình yêu. Hành trình của sóng tìm đến biển là hành trình tình yêu vượt lên cái nhỏ bé, tầm thường để hướng về sự cao thượng, vị tha, đồng điệu. Đó là khát vọng muôn đời của con người trong tình yêu.

– Khổ thơ đầu là trạng thái của sóng – trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

– Kết cấu đối lập, song hành: dữ dội/ dịu êm, ồn ào/ lặng lẽ.

– Đặt là dịu êm, lặng lẽ ở cuối câu, ý thơ như nghiêng hẳn về phía đó. Xuân Quỳnh mượn trạng thái thất thường, đối lập của sóng để diễn tả những phức tạp, bí ẩn trong tâm trạng người con gái khi yêu. Đó là tâm trạng vừa phong phú, vừa phức tạp của một trái tim phụ nữ nhạy cảm và khát khao yêu đương: có lúc nồng nàn, sôi nổi, đắm say; cũng có lúc dịu dàng, đằm thắm. Những mặt trạng thái ấy mâu thuẫn mà thống nhất với nhau.

– Con sóng không bằng lòng với khuôn khổ nhỏ hẹp của sông, nên nó tìm ra tận bể để hiểu đúng tầm vóc, bản chất của mình.

– Trái tim yêu của người phụ nữ cũng vậy: không chấp nhận sự tầm thường, hạn hẹp, tù túng mà luôn muốn vươn tới cái lớn lao, cao cả để tìm thấy chính mình trong tình yêu. Đó cũng là quan niệm mới mẻ trong tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh: sự chủ động, kiêu hãnh khi yêu của người phụ nữ, không nhỏ bé, cam chịu mà mạnh mẽ, táo bạo.

– Hành trình của sóng tìm ra biển là hành trình tình yêu hướng tới cái vô biên, tuyệt đích. Tâm hồn người phụ nữ khi yêu muốn vượt lên những giới hạn tầm thường để tìm đến tình yêu cao đẹp, lớn lao, được là chính mình. Nói cách khác, đó là khát vọng vươn tới sự đồng cảm, thấu hiểu trong tình yêu.

– Khổ thơ thứ hai nói đến tình yêu của tuổi trẻ là khát vọng muôn đời:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

– Tình yêu là khát vọng chính đáng muôn đời của con người. Sóng trường tồn cùng thời gian cũng như tình yêu muôn đời vẫn bồi hồi, thổn thức trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ. Như vậy, mượn hình ảnh sóng, Xuân Quỳnh đã bộc lộ khát vọng được yêu, được sống hết mình trong tình yêu.

=> Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đó là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Thể thơ năm chữ tạo âm điệu của những con sóng biển. Nghệ thuật đối lập, nhân hóa, ẩn dụ… Tất cả đã tạo nên những vần thơ tình yêu hay nhất mọi thời đại.

2. Ngọn nguồn của sóng – Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.

– Tình yêu là lẽ tự nhiên như hơi thở, cần thiết như ăn cơm, uống nước hàng ngày. Ấy thế mà tình yêu là gì mà có sức quyến rũ đến như vậy thì chưa ai giải thích được. Ngay đến Xuân Diệu – một nhà thơ tình nổi tiếng, một con người luôn khát khao giao cảm với đời, say đắm với tình yêu mà cũng bất lực:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió đìu hiu

– Làm sao có thể cảnh giác được tình yêu. Nó đến lúc nào ta đâu có biết và nó chiếm hồn ta lúc nào ta đâu có hay. Trước một vấn đề khó lí giải như vậy, em làm sao tránh khỏi sự băn khoăn trăn trở:

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em?
Em nghĩ về biển lớn,
Từ nơi nào sóng lên?

– Em nghĩ nghĩa là em đang thao thức, đang lo lắng, đang đặt ra nhiều câu hỏi.

– Điệp từ em nghĩ làm cho câu thơ đằm lại dịu dàng và càng làm rõ hơn sự suy nghĩ trong lòng em. Và như thế nhà thơ có một chút bối rối ưu tư muốn tìm hiểu về anh về em về biển lớn chứ không phải chỉ quen bồng bềnh, quen si mê, chỉ yêu và đơn thuần chỉ là yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không đơn giản, yêu cháy bỏng nồng say nhưng không vì thế mà hời hợt.

– Đến đây, nhân vật trữ tình có vẻ không thống nhất. Nếu ở đoạn thơ trên, em còn giấu mình trong lớp sóng ngoài kia thì đến đoạn này dường như nhà thơ không kìm chế nổi tình yêu đang dâng lên dạt dào trong ngực trẻ. Nhân vật trữ tình đã thoát ra khỏi lớp áo ẩn dụ để xưng em:

Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

– Anh phải chăng là biển lớn, là cuộc đời mênh mông. Em là con sóng dạt dào, là biểu tượng cho một tình yêu trỗi dậy. Xuân Quỳnh nghĩ về tình yêu, về anh nhưng vẫn nghĩ đến cuộc đời chung. Đó là điều đáng quý. Nhà thơ nắm bắt được mối liên hệ giữa hạnh phúc riêng và cuộc sống chung của mọi người.

– Nếu sóng tìm ra tận bể để tự hiểu mình thì em cũng sẽ tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người đích thực của em.

– Và trước không gian bao la của biển cả, làm sao em không trăn trở với những câu hỏi tự ngàn xưa:

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?

– Xuân Quỳnh muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tìm mình. Nhà thơ muốn dựa vào quy luật của tự nhiên để tìm ra qui luật của tình yêu.

– Lời thú nhận nhỏ nhẹ, thành thực có phần nũng nịu, bối rối: em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau?. Tình yêu như sóng biển, làm sao hiểu hết được, tình yêu là tiếng nói của cảm xúc, trái tim nên khó lí giải. Cách cắt nghĩa tình yêu chân thành, đầy nữ tình của Xuân Quỳnh.

– Thế là ra tận bể mà sóng vẫn chưa hiểu nổi mình. Em đã hòa nhập vào biển lớn của tình yêu mà nào em đã hiểu em. Em yêu anh từ đâu? Khi nào? Từ cái gì? Ánh mắt, nụ cười, giọng nói?

– Mọi câu hỏi đặt ra đều tha thiết tìm về cội nguồn của nó. Nhưng em cũng không biết nữa. Mà biết để làm gì? Chỉ cần hiểu rằng: Ta vẫn yêu nhau là đủ. Cái thiêng liêng nhất, tuyệt diệu nhất trong tình yêu là sự giao cảm, hòa hợp sâu xa giữa hai tâm hồn, hai nửa cuộc đời tự nguyện gắn bó với nhau để tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, vĩnh viễn không trước cũng không sau.

=> Đoạn thơ với âm điệu dạt dào, thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt, kết cấu trùng điệp, đã gợi ra nhịp điệu của sóng biển sôi nổi, dạt dào, lúc dịu êm, sâu lắng diễn tả được những trạng thái tinh tế của tình yêu.

3. Sóng – Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.

– Xuân Diệu từng viết:

Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình với ta

Hay Nguyễn Đình Thi:

Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn

– Còn Xuân Quỳnh thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu qua nhiều cung bậc:

+ Trong tình yêu, ta vẫn thường thấy hai mặt yêu và nhớ, yêu say đắm thì nhớ thiết tha:

Cong sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước

+ Đó là những cung bậc khác nhau của nỗi nhớ anh. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì con sóng vẫn đều có bờ. Bờ là nơi đến của sóng, là đối tượng để sóng vuốt ve, vỗ về, là cái đích để đi đâu về đâu sóng lúc nào cũng nhớ đến, cũng không quên, ngay cả đó là ngày hay đêm:

Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được

+ Nỗi nhớ có cái biểu hiện ra bên ngoài, có cái ẩn chứa tự sâu trong đáy lòng. Vắng anh, em nhớ, khi thức, em nhớ đến anh. Đó là biểu hiện bình thường. Nhưng ở đây, trong mơ em vẫn nhớ. Đó là nỗi nhớ da diết, khắc khoải, thổn thức cứ trằn trọc không yên:

Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.

– Lòng thủy chung vừa như một thuộc tính, vừa là bản chất của tình yêu chân chính:

+ Xưa nay, nỗi nhớ luôn gắn liền với khái niệm thời gian vô tận và không gian vô cùng. Với thời gian, nó không có ngày đêm; với không gian, nó không có phương hướng. Không gian có bốn phương là Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng trongn tình yêu thì chỉ có một phương duy nhất và đó chính là anh. Trong đời, em quen biết nhiều người, họ có thể hơn hẳn anh thế nhưng em lại chọn anh, yêu anh và chỉ biết có anh. Chỉ riêng anh là khiến em luôn nghĩ tới và hướng về:

Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương

+ Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưới ấm cho nhau.

+ Dùng hình thức điệp, điệp cấu trúc kết hợp với nghệ thuật đối lập qua cách nói ngược xuôi bắc, ngược nam, tác giả muốn nhấn mạnh rằng: bất chấp sự cách trở của không gian và thời gian, người phụ nữ vẫn giữ vững lời thề vàng đá, vẫn thủy chung son sắt.

+ Tình yêu đẹp là vậy, trong sáng là vậy, mãnh liệt bay bổng là vậy nhưng nó không tránh khỏi những dâu bể của đời thường. Chính vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời với niềm tin sẽ tới đích:

Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.

+ Những con sóng ở đại dương dù gió xô bão táp tới phương nào đi chăng nữa thì cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh.

=> Với hai khổ thơ, Xuân Quỳnh một lần nữa khắc họa tình yêu người phụ nữ. Cách sử dụng các biện pháp tu từ, đối lập, tương phản, điệp, cách sử dụng từ cảm thán và cách mượn hình tượng sóng đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

4. Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.

– Từ nỗi nhớ lúc dữ dội – ồn ào, lúc êm đềm – lặng lẽ, ý thơ dồn thành khát vọng sống mãnh liệt của sóng. Sóng tìm đến cái đích cảu tình yêu trong một niềm tin mạnh mẽ:

+ Xuân Quỳnh mượn quy luật của sóng biển, mây trời để diễn tả quy luật của lòng người. Là một phụ nữ nhạy cảm và đa đoan, Xuân Quỳnh ý thức rất đời: cuộc sống là dài, rộng, là muôn vời cách trở.

+ Càng thấp thỏm, lo âu, Xuân Quỳnh càng cháy bỏng một niềm tin tha thiết, cảm động: tình yêu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới đích, như những con sóng con nào chẳng tới bờ và mây vẫn bay về xa.

– Lời thơ cứ thế triền miên cùng sóng. Cuối cùng sóng hiện ra trong khát khao hạnh phúc mãnh liệt nhất: khát khao tình yêu vĩnh hằng, bất tử:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.

+ Đứng trước biển, đối diện với cái mênh mông rộng lớn của thời gian và không gian Xuân Quỳnh ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc.

+ Nhà thơ muốn được có mặt mãi trên cõi đời để được sống và bất tử trong tình yêu. Khát vọng hóa thân và phân thân trong sóng thật mạnh mẽ. Hai chữ “tan ra” vừa cháy bỏng nồng nhiệt, vừa thăm thẳm nỗi niềm phụ nữ – cái thăm thẳm của hai khát vọng hòa làm một: yêu hết mình và dâng hiến hết mình. Đó cũng chính là vẻ đẹp thánh thiện của người phụ nữ trong tình yêu.

=> Đoạn thơ xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị, sâu xa. Sóng vì nó không chỉ đơn thuần là thơ mà còn là những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của một tâm hồn phụ nữ, một trái tim nhạy cảm luôn khao khát yêu thương.

=> Sóng là một hình tượng nghệ thuật đẹp, là ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu: mãnh liệt, chân thành, dịu dàng. Từ đó, Xuân Quỳnh gửi gắm khát vọng tình yêu vừa rất truyền thống, lại vừa hiện đại: vừa đằm thắm, dịu dàng, chung thủy, vừa táo bạo, mãnh liệt, hiến dâng.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.

2. Nghệ thuật

– Bài thơ mang âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp độ của con sóng liên tiếp.

– Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường là không ngắt nhịp, các câu thơ ngắn, đều đặn gợi sự nhịp nhàng.

– Thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi nhũng trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con gái đang yêu.

Tìm hiểu văn bản: Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên

0

I. Tác giả

1. Tiểu sử 

– Chế Lan Viên ( 1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan.

– Quê quán: Cam An – Cam Lộ – Quảng Trị. Từ năm 1927, gia đình ông chuyển vào An Nhơn, Bình Định.

– Sau khi tốt nghiệp Trung học, Chế Lan Viên đi dạy học ở trường tư, làm báo ở Sài Gòn và các tỉnh miền Trung.

– Ông tham gia cách mạng tháng Tám ở Quy Nhơn .

– Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV và chiến trường Bình – Trị – Thiên.

– Sau năm 1954, ông về Hà Nội tiếp tục hoạt động văn học, nhiều năm tham gia lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam.

– Sau 1975, ông vào sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục hoạt động văn học.

2. Sự nghiệp văn học 

a. Tác phẩm chính

– Thơ: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (1954), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967),  Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973),…

– Tiểu luận – phê bình: Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952), Nói chuyện thơ văn (1960), Vào nghề (1962), Phê bình văn học (1962), Suy nghĩ và bình luận (1971),…

b. Phong cách nghệ thuật

– Con đường thơ của Chế Lan Viên “trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ”, thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945 – 1958).

– Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa “trường thơ loạn”: “kinh dị, thần bí, bế tắc của thời.”

– Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã “đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng và có những thay đổi rõ rệt.

– Trong thời kì 1960 – 1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự.

– Sau năm 1975, “thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống”.

=> Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng – triết lý. Chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. Khai thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.

II. Tác phẩm

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

– In trong tập Ánh sáng và phù sa, viết nhân cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc những năm 1958-1960.

b. Bố cục (3 đoạn)

– Đoạn 1 (khổ 1,2): Sự trăn trở và lời mời gọi lên đường.

– Đoạn (khổ 3 đến khổ 11): Khát vọng về với nhân dân.

– Đoạn 3 (còn lại): Khúc hát lên đường.

 c. Ý nghĩa nhan đề

– Con tàu: thời điểm sáng tác bài thơ chưa có tuyến đường sắt lên Tây Bắc, hình ảnh con tàu ở đây ý nghĩa biểu tượng cho khát vọng lên đường, khát vọng về với nhân dân, hòa nhập vào cuộc sống lớn của đất nước.

– Tây Bắc: nghĩa đen chỉ mảnh đất miền tây Bắc Bộ của nước ta. Nghĩa biểu tượng: chỉ cuộc sống rộng lớn và những miền đất xa xôi còn nhiều khó khăn của Tổ quốc.

=> Ý nghĩa nhan đề “Tiếng hát con tàu“: là tiếng hát say mê, hăm hở, lạc quan, phấn chấn của tâm hồn tràn đầy khát vọng, mong mỏi xây dựng đất nước và tìm về với ngọn nguồn sáng tạo thơ ca của thi sĩ.

d. Ý nghĩa bốn câu đề từ

–  Tổ quốc vẫy gọi và tâm hồn nghệ sĩ hướng về nhân dân, về cuộc sống sôi nổi đang diễn ra trên mọi miền đất nước. Về với Tây Bắc cũng là về với nhân dân, về với chính mình, về với ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo.

2. Tìm hiểu chi tiết

a. Sự trăn trở, giục giã và lời mời gọi lên đường (hai khổ đầu)

– Đoạn thơ mang giọng điệu đối thoại như mời gọi, như sự hối thúc.

– Dường như hình ảnh con tàu là một hình ảnh ẩn dụ nghệ thuật có ý nghĩa tượng trưng cho ước mơ, khát vọng vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, quẩn quanh để đến với cuộc sống rộng lớn của nhân vật trữ tình.

– Tây Bắc – tên gọi cụ thể, chỉ địa danh một vùng đất xa xôi của Tổ quốc.

– Tây Bắc chính  là cội nguồn cảm hứng của hồn thơ, của sáng tạo nghệ thuật. Vì thế, lời giục giã lên Tây Bắc cũng là về với chính lòng mình, với những tình cảm trong sáng, nghĩa tình gắn bó sâu nặng với nhân dân và đất nước.

=> Hai khổ thơ đầu cho thấy đặc điểm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên với chất suy tưởng triết lí, do gắn bó với thực tế cuộc sống nên nó rất thể, rất thực.

 b. Khát vọng và niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân cùng những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình (chín khổ tiếp)

– Khung cảnh thiên nhiên, con người Tây Bắc nay đã đổi thay.

– Đến với Tây Bắc là đến vùng đất thân yêu của tâm hồn mình, là cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc thân yêu.

– Kỉ niệm về đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc được tác giả nhắc lại qua hình ảnh của những con người cụ thể (người anh du kích, bà mẹ tóc bạc, người em nhỏ liên lạc…).

– Sự cưu mang, đùm bọc, tình yêu thương chân thành của người dân Tây Bắc như đã tiếp thêm sức mạnh cho nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại những kỉ niệm sâu sắc không thể nào quên.

– Thể hiện được rõ nét về niềm khao khát mãnh liệt và nỉềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi trở về với nhân dân.

– Từ những kỉ nỉệm ân tình với đồng bào vùng cao Tây Bắc, tác giả đã nâng lên thành những suy ngẫm, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra từ trải nghiệm của chính mình:

+ Nói về tình yêu nhưng tác giả lại hướng tới cắt nghĩa, lí giải để làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ. Chính phép màu của tình yêu đã biến những miền đất xa xôi trở thành thân thiết như quê hương ta, hoá thành máu thịt tâm hồn ta.

+ Nói đến tình yêu và nỗi nhớ, Chế Lan Viên không ngại ngần diễn tả thật hóm hỉnh và sâu sắc mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những người đang yêu bằng những hình ảnh rực rỡ sắc màu và đậm đà phong vị vùng cao: như đông về nhớ rét, như cánh kiến hoa vàng,…

– Nhà thơ đã rất sáng tạo khi nói về nhân dân, về tình yêu con người, tình yêu cuộc sống. Sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ có tính đa nghĩa. Nhịp điệu thơ biến đổi linh hoạt, vừa sôi nổi vừa da diết, lắng sâu.

c. Khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê (bốn khổ cuối)

 – Tiếng gọi của đất nước, của nhân dân, của đời sống đã thành sự thôi thúc mãnh liệt, thành lời giục giã của chính lòng mình “Đất nước gọi hay là lòng ta gọi?” nên càng không thể chần chừ và nó trở thành nỗi khát khao không thể cưỡng lại được “Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga / Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng.” Nỗi khát khao ấy đã thúc giục tâm hồn nhà thơ trở về với Tây Bắc vì đó là sự trở về với ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo:

Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ

– Âm hưởng của câu thơ lôi cuốn trùng điệp thể hiện sự say mê, niềm tin tưởng của nhà thơ khi trở về với nhân dân, với Tổ quốc “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng, tiếng hát / Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.

d. Giá trị nội dung

– Bài thơ thể hiện khát vọng, niềm hân hoan trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, đất nước, cũng là tìm thấy nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho hồn thơ.

e. Giá trị nghê thuật

– Nghệ thuật so sánh, điệp từ, điệp ngữ -> nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong kháng chiến.

– Thơ giàu chất suy tưởng triết lí.

Tìm hiểu văn bản: Đất nước – Nguyễn Đình Thi

0

I. Tác giả

1. Tiểu sử – Cuộc đời

– Nguyễn Đình Thi (1924- 2003), sinh ra tại Thành phố Luông Pha Băng, nước Lào.

– Ông tham gia kháng chiến và giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng.

– Nguyễn Đình Thi được xem là một nghệ sĩ đa tài, ông sáng tác nhạc, làm thơ, viết tiểu thuyết, kịch, tiểu luận phê bình. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đáng trân trọng.

2. Sự nghiệp văn học

a. Phong cách nghệ thuật

– Thơ ông tự do, phóng khoáng mà vẫn hàm súc, sâu lắng, suy tư và có nhiều tìm tòi theo hướng hiện đại.

– Những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Đình Thi là sự phản ánh kịp thời cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến. Các tác phẩm của ông đều mang tính thời sự về các cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.

b. Tác phẩm chính

– Thơ: Người chiến sỹ (1958); Bài thơ Hắc Hải (1958); Dòng sông trong xanh (1974); Tia nắng (1985); Đất nước (1948 – 1955); Nhớ; Lá đỏ….

– Tiểu thuyết “Xung kích“, “Vỡ bờ”; “Thu đông năm nay” (1954), “Bên bờ sông Lô” (1957), “Vào lửa” (1966), “Mặt trận trên cao” (1967…

– Phê bình văn học: Tiểu luận “Nhận đường”.

– Kịch: Con nai đen (1961); Hoa và Ngần (1975); Giấc mơ (1983); Rừng trúc (1978); Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979); Người đàn bà hóa đá (1980); Tiếng sóng (1980); Cái bóng trên tường (1982); Trương Chi (1983); Hòn Cuội (1983 – 1986).

II. Tác phẩm

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời

– Bài thơ được sáng tác trong một thời gian dài (1948-1955), tương đương với thời kì chống thực dân Pháp.

– Bài thơ có những đoạn lấy từ hai bài thơ “Sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948) và “Đêm mitting” (1949), đến năm 1955, Nguyễn Đình Thi viết thêm phần sau “Ôi những cánh…”

=> Dù viết nhiều lần nhưng bài thơ vẫn là một chỉnh thể nghệ thuật và là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Đình Thi và văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám viết về đề tài đất nước.

b. Bố cục: 2 phần:

– Phần 1: Từ đầu đến “Những buổi ngày xưa vọng nói về”: Mùa thu đất nước trong hoài niệm của nhà thơ.

– Phần 2: Còn lại: Hình ảnh đất nước kháng chiến đau thương mà anh hùng tình nghĩa.

2. Tìm hiểu chi tiết

a. Phần 1

* Hình ảnh mùa thu Hà Nội trong hoài niệm (từ đầu đến… lá rơi đầy):

– Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới, đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội.

– Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm:

+ Bức tranh mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi, hương cốm, chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội => Bức tranh mùa thu có hình khối, đường nét, màu sắc những chứa đầy tâm trạng của người ra đi “Người ra đi… lá rơi đầy”.

+ Hình ảnh người đi buồn bã, lưu luyến nhưng cũng đầy cương quyết: Người ra đi đầu không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

=> Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải li biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.

* Mùa thu cách mạng, mùa thu độc lập vui tươi, phấn chấn.

– Tiếng reo vui trước mùa thu hiện tại độc lập, hạnh phúc.

– Mùa thu cách mạng tươi đẹp, sôi nổi: không gian nghệ thuật dịch chuyển từ những phố dài xao xác buồn bã sang không gian núi rừng tươi mới, tràn đầy sức sống (rừng tre phấp phới, trời thu thay áo mới) với những âm thanh ngân nga, vang vọng; trạng thái nhân vật trữ tình vui vẻ, hạnh phúc hòa trong sự phấn chấn của tạo vật (phấp phới, thiết tha).

– Mùa thu độc lập, tự chủ: Trời xanh đây là của chúng ta…

– Suy tư về hồn thiêng đất nước: Nước chúng ta…vọng nói về.

=> Niềm tự hào về đất nước.

– Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ: hình ảnh thơ giàu sức gợi, câu thơ giàu tính nhạc, vận dụng hiệu quả phép điệp, giọng thơ phấn chấn sôi nổi, cảm xúc mãnh liệt…

=> Đoạn thơ thể hiện tình yêu tha thiết, niềm tự hào về quê hương đã được độc lập, có truyền thống anh hùng, bất khuất.

b. Phần 2

* Đất nước đau thương trong chiến tranh:

– Đất nước chìm trong máu và nước mắt: những cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều, bát cơm chan đầy nước mắt…đứa đè cổ đứa lột da.

– Đất nước bật lên nỗi căm hờn: Từ những năm đau thương chiến đấu…căm hờn.

* Đất nước vùng lên giành lấy chiến thắng vinh quang, chói lọi:

– Vượt lên đau thương để lao động và chiến đấu, chống lại kẻ thù: Những đêm dài hành quân nung nấu, Xiềng xích chúng bay không khóa được….lòng dân ta yêu nước thương nhà.

– Hình ảnh đất nước kì vĩ, chói lọi, quật khởi bừng dậy giữa hiện thực rung trời chuyển đất: Ôm đất nước những người áo vải / Đã đứng lên thành những anh hùng, Nước Việt Nam từ máu lửa / Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

– Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ: hình ảnh sáng tạo đầy sức gợi hình gợi cảm, thủ pháp đối lập, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét.

=> Bức tranh đất nước được tạo nên bằng chất liệu hiện thực (đường nét tương phản đối lập).

 => Hình tượng giàu tính sử thi, là cao trào của cảm xúc, thâu tóm được tư tưởng toàn bài.

c. Giá trị nội dung

– Đất nước được cảm nhận trong chiều dài của những năm tháng kháng chiến, chiến đấu và chiến thắng, trong không gian rộng lớn.

– Cảm xúc, suy tư: đất nước gần gũi, thiêng liêng, trang trọng, vĩ đại và anh hùng.

d. Giá trị nghệ thuật

– Nhịp điệu, hình ảnh thơ sáng tạo.

– Ngôn ngữ thơ lắng đọng, cô đúc.

– Sử dụng sáng tạo, phong phú các biện pháp tu từ.

Tìm hiểu văn bản: Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên-Huế trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng.

– Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

– Tác phẩm chính: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặng

– Phong cách thơ: sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước, con người Việt Nam

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời

– Trường ca Mặt đường khát vọng hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.

– Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh thế hệ mình với quê hương đất nước.

b. Vị trí đoạn trích

– Đoạn trích Đất Nước: nằm ở phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” là một trong những đoạn thơ hay về đề tài Đất Nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Đất nước được cảm nhận từ phương diện văn hóa dân gian, văn học dân gian (9 câu đầu)

– Toàn đoạn thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất nước một cách sâu sắc.

– Trước hết, ở hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đã đi tìm sự lí giải về sự sinh thành của đất nước. Đất nước có từ bao giờ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết:

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

+ Tham vọng tính tuổi đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái ngày xửa ngày xưa (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừu tượng, không xác định.

+ Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc của huyền thoại. Song chính ở cái ngày xửa ngày xưa đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức được: Đất nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết. Chỉ biết rằng: Khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì đất nước đã hiện hữu.

– Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước:

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn,
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

+ Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam.

+ Ở đây, miếng trầu đã là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Bởi lẽ, miếng trầu là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.

– Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước.

– Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân:

Tóc mẹ búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cài kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng,…

+ Đoạn thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh tóc mẹ búi sau đầu, gợi tả một nét đẹp thuần phong mĩ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

+ Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.

– Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp: Đất nước đã có; Đất nước bắt đầu; Đất nước lớn lên; Đất nước có từ… giúp người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kì của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ “Đất Nước” (vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước, quê hương của mình.

=> Có thể nói, đoạn thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước – một câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ: Nhà thơ không tạo ra khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình mĩ lệ, mang tính biểu tượng để cảm nhận và lí giải, mà dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần gũi, thân thiết, bình dị nhất.

2. Đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất hài hòa các phương diện thời gian, không gian địa lí và lịch sử (20 câu tiếp)

– Đoạn trích Đất Nước thâu tóm ý nghĩa của cả chương V, sự cảm nhận về Đất Nước một cách toàn diện, cụ thể, sâu sắc, cốt lõi là tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Từ đó nhà thơ bộc lộ lòng yêu quý, niềm tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với đất nước thân yêu. Tư tưởng chủ đạo này đã được Nguyễn Khoa Điềm triển khai ở nhiều bình diện: địa lí, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ đậm đà giàu sắc thái dân gian nhưng đặc biệt gợi cảm, để lại ấn tượng rất sâu sắc trong lòng bạn đọc.

– Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với người con gái yêu thương. Nhà thơ định nghĩa Đất Nước, Đất Nước là gì theo cách riêng của mình, theo cách riêng của nhà thơ. Và ở đoạn thơ tiếp theo, vận dụng tính đơn lập của tiếng Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tách từ Đất nước thành hai thành tố là Đất và Nước để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm Đất Nước trừu tượng thành cụ thể, sinh động và gợi cảm:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

+ Ý thơ ở đây rất mới mẻ, cụ thể. Đất nước đã trở thành rất gần gũi, thân thương, gắn bó với mỗi người. Thân thương như trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa bến nước nơi lứa đôi hò hẹn.

+ Một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư, nhưng cũng đầy hồn quê hương xứ sở.

– Đất nước còn thân thương như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng:

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai

– Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say xưa lý giải:

Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ

+ Lấy ý từ những câu dan ca Huế mượt mà, câu thơ đưa người đọc về với không gian Đất Nước thân thương, từ những núi bạc biển khơi mang âm hưởng thành ngữ dân gian gợi ra một đất nước mênh mông giàu đẹp.

+ Sự mênh mông giàu đẹp đó không tự nhiên mà có, được thời gian đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt, cả máu nữa, để xây dựng bảo vệ bờ cõi đất nước, thành dải đất chữ S cho dân mình đoàn tụ, đoàn tụ trong yêu thương, tự hào.

– Tự hào bởi:

Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

+ Ở đoạn thơ này, những hình tượng quen thuộc trong thần thoại truyền thuyết như Chim Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng cùng tụ về trong sự liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: Dân tộc ta là con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc. Đất Nước ta là nơi đất lành chim về, đất thiêng rồng ở, dân tộc Việt là anh em một nhà, cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.

+ Một đất nước có cội nguồn văn hóa, có truyền thống lâu đời, rất đỗi thân thương và tự hào như thế, chính là Đất Nước của Nhân Dân.

+ Đất Nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan, trừu tượng mà tươi sáng cảm xúc Đất Nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch sử – địa lí – văn hóa.

– Đất Nước còn là sự kết tinh, thống nhất sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần đời đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

+ “Những ai đã khuất”, thì đến hiện tại “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau và sinh con đẻ cái”. Đặc biệt, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều gắn bó với Đất Nước. Nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề mà ông cha ta giao lại vừa dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần chu đáo để các thế hệ mai sau sẽ tiếp tục đưa Đất Nước đi đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh.

+ Đó là mơ mộng, là nước mơ khát vọng của thời đại nhà thơ, nhưng lại là hiện thực tất yếu của tương lai. Ước mơ ấy ngày nay đã thành sự thực. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin giữa những ngày đánh Mĩ của nhà thơ, của ông cha ta.

– Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta, đều mang trong mình dòng máu Việt. Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với Đất Nước lại trỗi dậy nồng nàn:

Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

+ Hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của câu ca dao xưa:

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười

+ Chỉ một câu ca dao cũng để nói lên sự gắn nó máu thịt của người Việt với quê hương đất nước. Dù bộn bề công việc, dù có ngược xuôi nơi nào, họ cũng luôn hướng về cội nguồn, miền đất tổ linh thiêng đã trở thành biểu tượng, thành linh hồn của đất nước.

+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện tấm lòng thành kính của nhà thơ với Đất Nước thân yêu.

=> Bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian, nhà thơ đã lí giải một cách sinh động, cụ thể cho câu hỏi: Đất nước là gì? Từ đó, hình ảnh Đất Nước hiện lên qua đoạn thơ vừa gần gũi, cụ thể, vừa thiêng liêng, khái quát trên cả bề rộng không gian địa lí mênh mông và thời gian lịch sử đằng đẵng của dân tộc.

3. Mỗi quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong Đất Nước (13 câu tiếp)

– 12 câu thơ mở đầu phần hai của đoạn thơ Đất Nước với nội dung ca ngợi, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân.

+ Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đât là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ong cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử của dân tộc.

+ Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái như những biểu tượng văn hóa:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

+ Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước để ta có những am đầm, con rồng, con cóc, con gà,… như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng:

Gót ngựa của Tháng Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm in góp dòng sông xanh thẳm
Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiêng
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
 Người học trò nghèo gió cho Đất Nước mình núi Bút non nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

+ Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu. Cũng như nếu không có truyền thuyết Vua Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng. Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.

– Thiên nhiên, đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện liên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, sòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

+ Với cấu trúc quy nạp (đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh… đến khái quát mang tính triết lý), dường như nhà thơ không thể kể hết ra những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú và đa dạng trên khắp đất nước. Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định: trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt.

– Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hóa linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao.

=> Đó là hình ảnh Đất Nước của nhân dân – nhân dân đã hóa thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng, gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hóa, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam.

5. Lời nhắc nhở thế hệ hôm nay và những thế hệ mai sau phải biết gìn giữ và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc (25 câu tiếp)

– Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lí – văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục bày tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước.

– Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là: Người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị. Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hi sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ cả anh và em đều nhớ:

Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

– Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng tất cả, họ đều có công làm ra Đất Nước. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ và đất nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân:

Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…

– Với tư tưởng Đất nước của nhân dân, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng,… cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân. Không những vậy, họ còn luôn sẵng sàng vũng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình:

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có giặc ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại

– Nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước.

=> Hình ảnh thơ giản dị mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình… đoạn thơ vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình.

6. Khẳng định Đất Nước là của nhân dân và niềm tin vào tương lai huy hoàng của Đất Nước (10 câu cuối)

– Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca – sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước, về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân. Để từ đó, nhà thơ khẳng định: Nhân dân chính là người – là chủ thể làm nên Đất Nước.

– Câu thơ mở đầu đoạn thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên toàn đoạn trích và cả Chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình – chính luận.

– Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại. Như vậy, cũng chính là dã sáng tạo ra Đất Nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống dân tộc:

Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu

+ Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương ân tình của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa vỡi những lời dân ca ngọt ngào:

Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

+ Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn cả vật chất ngàn vàng. Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc:

Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.

+ Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Để từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tính cách, lẽ sống tâm hồn mình.

=> Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và yêu thương. Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu… đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân nhân trong lịch sử. Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới.

II. Tổng kết

1. Nội dung

– Đoạn trích thể hiện một cái nhìn mới mẻ về đất nước: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.

– Đoạn trích nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc.

2. Nghệ thuật

– Thể thơ tự do phóng túng.

– Giọng thơ suy tưởng: đặt câu hỏi và tự trả lời.

– Sử dụng các chất liệu văn hoá dân gian không phải là thủ pháp nghệ thuật mà là để chi phối tư tưởng “Đất Nước là của Nhân Dân”.

– Giọng thơ trữ tình – chính luận.

Tìm hiểu văn bản: Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc

0

I. Tác giả

1. Tiểu sử 

– Phạm Văn Đồng (1906 -2000)

– Quê quán: Tân Đức, Mộ Đức, Quảng Ngãi.

– Tham gia cách mạng từ sớm và là nhà hoạt động cách mạng xuất sắc; là nhà giáo dục tâm huyết và một nhà văn hóa, văn nghệ lớn.

2. Sự nghiệp văn học

– Thể loại: Các tác phẩm nghị luận xuất sắc.

– Văn phong nghị luận của ông đầy nhiệt tình, lôi cuốn người đọc bằng những luận điểm mới mẻ, sâu sắc với lời văn trong sáng, nhiều hình ảnh.

– Tác phẩm chính: Hồ Chí Minh – Một con người, một dân tộc, một thời đại; Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, Văn hóa đổi mới…

II. Tác phẩm

1. Tìm hiểu chung

a. Hoàn cảnh ra đời

– Được viết nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất của nhà thơ NĐC, đăng trên tạp chí văn học tháng 7 – 1963.

b. Thể loại: Văn nghị luận

c. Mục đích

– Tác phẩm ra đời nhằm cổ vũ phong trào đấu tranh chống đế quốc Mĩ của nhân dân miền Nam đang dấy lên mạnh mẽ và rộng khắp.

– Có cái nhìn đúng đắn, sâu sắc hơn về thơ văn và con người NĐC.

 d. Bố cục: 3 phần, một bài văn nghị luận mẫu mực

– Phần 1 : Từ đầu đến “một trăm năm”: Đặt vấn đề: Nguyễn Đình Chiểu một nhà thơ lớn của dân tộc.

– Phần 2: Tiếp đến ” …Lục Vân Tiên”: Giải quyết vấn đề: Vài nét về con người của NĐC, thơ văn yêu nước của NĐC, Lục Vân Tiên là tác phẩm có giá trị của NĐC .

– Phần 3: Phần còn lại: Kết thúc vấn đề: Cuộc sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng cho toàn dân tộc.

2. Phân tích chi tiết

a. Phần 1: Đặt vấn đề: Nguyễn Đình Chiểu một nhà thơ lớn của dân tộc

– Vấn đề: Nguyễn Đình Chiểu phải được nghiên cứu và đề cao hơn nữa.

– Hình ảnh ẩn dụ “ngôi sao”: “những vì sao có ánh sáng khác thường”, “con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy”. Điều này cho thấy vẻ đẹp của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu không phải là vẻ đẹp rực rỡ, bóng bẩy.

– Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu chưa sáng tỏ hơn trong bầu trời văn nghệ dân tộc vì:

+ Chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên và hiểu tác phẩm này còn thiên lệch.

+ Ít biết đến thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.

=> Cách đặt vấn đề độc đáo: nêu vấn đề, lí giải vấn đề, so sánh giàu hình ảnh, giàu tính hình tượng.

b. Phần 2: Giải quyết vấn đề

* Luận điểm 1: Nguyễn Đình Chiểu là một con người yêu nước:

–  Cuộc đời:   

+ Đời sống và hoạt động của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương anh dũng.

+ Cuộc đời và thơ văn của ông là một chiến sĩ hi sinh, phấn đấu vì nghĩa lớn.

=> Mang khí tiết của người chí sĩ yêu nước.

–  Quạn niệm sáng tác:

+ Thơ văn là chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng.

+ Cầm bút, viết văn là một thiên chức.

+ Coi trọng sự nghiệp viết văn của mình, khinh miệt bọn lợi dụng văn chương để làm việc phi nghĩa.

=> Quan niệm văn học hết sức mới mẻ, tiến bộ.

* Luận điểm 2: Cách đánh giá thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.

“Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình chiểu làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trào kháng Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam bộ từ năm 1860 về sau, suốt hai mươi năm trời”.

– Tái hiện lại một thời đau thương và khổ nhục nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc.

– Phần lớn thơ văn Đồ Chiểu là những bài văn tế ca ngợi những anh hùng tận trung với nước và than khóc những ngưới liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Đặc biệt người nghĩa sĩ nông dân chỉ biết cuốc cày đã trở thành anh hùng cứu nước.

=> Văn viết rõ ràng, lí lẽ đưa ra có dẫn chứng đầy đủ, cách lập luận chặt chẽ

=> Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là vũ khí chống bọn xâm lược và là bài ca chính nghĩa, ca ngợi đạo đức ở đời.

=> Tất cả kết hợp với tình cảm nồng hậu của Phạm Văn Đồng đối với Nguyễn Đình Chiểu để bài viết giàu tính thuyết phục.

* Luận điểm 3:  Sức sống mạnh mẽ của tác phẩm Lục Vân Tiên.

 “ Lục Vân Tiên” là tác phẩm lớn của Nguyễn Đình Chiểu, rất phổ biến trong dân gian, nhất là ở miền Nam.

– Giá trị nội dung: đây là tác phẩm dài nhất, lớn nhất thể hiện một phần cuộc đời, hiện thực và khát vọng, mơ ước của Nguyễn Đình Chiểu; với nhân dân miền Nam, tác phẩm rất được yêu mến, truyền tụng.

– Giá trị văn chương: đây là “một chuyện kể”, “chuyện nói”, lời văn “nôm na”, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ truyền bá rộng rãi trong dân gian.

– Hạn chế của tác phẩm:

   + Những luân lí mà Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi đã lỗi thời, có chỗ lời văn không hay lắm.

   + Hạn chế không cơ bản.

=> Tác giả đánh giá toàn diện giá trị, hạn chế tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm

c. Phần 3: Kết thúc vấn đề

* Luận điểm: “Đời sống và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học nghệ thuật, sứ mạng người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”.

=> Vị trí, vai trò của Nguyễn Đình Chiểu.

Rút ra bài học sâu sắc:

+ Đốt nén hương lòng tưởng nhớ người con quang vinh của dân tộc.

+ Mối quan hệ giữa văn học và đời sống.

+ Vai trò của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng.

d. Giá trị nội dung

– Làm sáng tỏ mối liên hệ khăng khít giữa thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu với hoàn cảnh của Tổ quốc lúc bấy giờ và với thời đại hiện nay.

– Đồng thời, tác giả hết lời ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu, một người trọn đời dùng cây bút làm vũ khí chiến đấu cho dân, cho nước, một ngôi sao sáng trong nền văn nghệ của dân tộc Việt Nam.

e. Giá trị nghệ thuật

– Có cách nhìn mới mẻ, lập luận chặt chẽ, lôgic.

– Kết hợp hài hoà giữa lí lẽ và tình cảm, giàu sức biểu cảm -> hấp dẫn, thuyết phục.

=> Luận điểm rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, vừa tác động đến lí trí lại thấm sâu vào tình cảm người đọc, tạo nên sức thuyết phục lớn.

Tìm hiểu văn bản: Một thời đại trong thi ca

0
fountain pen on text sheet paper with rose close-up

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử – Cuộc đời

– Hoài Thanh (1909-1982), Tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên

– Quê: Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo.

– Trước cách mạng:

+ Tham gia các phong trào yêu nước ngay từ thời đi học và bị thực dân Pháp bắt giam.

+ Tham gia cách mạng tháng 8 và làm chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc ở Huế.

– Sau cách mạng tháng 8:

+ Chủ yếu hoạt động trong ngành Văn hóa – Nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, Hội văn nghệ Việt Nam, Tổng thư ký Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam…

b. Sự nghiệp văn học

* Các tác phẩm chínhVăn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950)…

* Phong cách phê bình

– Là nhà lý luận phê bình xuất sắc của nền Văn học Việt Nam hiện đại: “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”

– Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế gần gũi và giàu cảm xúc, hình ảnh. Có sự kết hợp giữa tính khoa học với tính văn chương logic, độc đáo.

– Năm 2000 ông được nhận giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm

a. Văn bản “Thi nhân Việt Nam”

–  Là bản tổng kết sự kiện văn học lớn: phong trào thơ mới – “cuộc cách mạng trong thi ca” Việt Nam đầu thế kỉ XX.

– Thi nhân Việt Nam : Gồm 3 phần :

+ Phần 1 : Cung chiêu anh hồn Tản Đà và Tiểu luận một thời đại trong thi ca (Nguồn gốc quá trình phát triển của thơ mới; sự phân hóa của thơ mới; định nghĩa thơ mới và sự phân biệt thơ mới với thơ cũ).

+ Phần 2 : 169 bài thơ của 46 nhà thơ (1932 – 1941)

+ Phần 3 : Nhỏ to – lời tác giả.

=> Cuốn tiểu luận có giá trị lớn trong việc tổng kết một chặng đường thơ và nêu lên được đặc trưng cơ bản của thơ mới.

b. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời

– Đoạn trích thuộc phần đầu của quyển “Thi Nhân Việt Nam”, là phần cuối của tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”

– Giá trị văn bản: tổng kết một cách sâu sắc toàn diện của phong trào thơ Mới.

c. Bố cục: 3 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu … “phải nhìn vào đại thể“): Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới.

+ Phần 2 (Tiếp theo … “rẻ rúng đến thế“): Tinh thần thơ mới: chữ tôi

+ Phần 3: Còn lại: Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.

II. Trọng tâm kiến thức

TINH THẦN THƠ MỚI 

Con đường đi tìm tinh thần thơ mới

Tinh thần thơ cũ

Cái ta

Tinh thần thơ mới

Cái tôi

Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó

1. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới

* Khó khăn :

– Tác giả trích dẫn chứng của hai nhà thơ cũ và mới tiêu biểu rồi đi đến chỉ ra sự khó khăn trong việc xác định thơ mới và thơ cũ.

 – Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra: “…hôm nay phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”.

 – Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở: Khốn nỗi cái tầm thường cái lố lăng chẳng phải của riêng thời nào.

=> Bằng những câu văn giả định, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn trong việc xác định thơ mới mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.

* Nguyên tắc (phương pháp) :

+ Căn cứ vào cái tiêu biểu:  phải sánh bài hay với bài hay: vì chỉ có bài hay mới toát lên được tinh thần của thơ ca đích thực.

+ Căn cứ vào cái “đại thể: phải nhìn vào đại thể để đánh giá khách quan, toàn diện, tránh cái nhìn vụn vặt, phiến diện

+  Phải so sánh với thơ cũ để thấy được sự khác biệt, từ đó mới xác lập cái cốt lõi của tinh thần thơ mới.

=> Tác giả sử dụng nghệ thuật lập luận quy nạp, theo logic chặt chẽ (đưa ra dẫn chứng và giả định – đi đến kết luận thuyết phục).

=> Lập luận chặt chẽ, thể hiện cái nhìn biện chứng, khách quan, khoa học của tác giả về một vấn đề văn học mới mẻ và phức tạp

2. Tinh thần thơ mới

– Nhận định táo bạo về thơ cũ và thơ mới:

+ Thơ cũ chính là “cái ta” ( ngày trước là thời chữ ta)

+ Thơ mới chính là “cái tôi” (bây giờ là thời chữ tôi)

– Tinh thần thơ mới : Chữ tôi. Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó.

– Cách hiểu về chữ tôi : So sánh :

 

Thời xưa – Thơ cũ : Chữ Ta.

Thời nay – Thơ mới : Chữ tôi.

Giống nhau Giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta.
Khác nhau + Không có cá nhân chỉ có đoàn thể, lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.

+ Không tự xưng hoặc ẩn mình sau chữ ta.

+ Thảng hoặc học cũng ghi hình ảnh họ…thảng trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi… Song.. không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay – thì cũng thế – với tất cả mọi người.

 

+ Quan niệm cá nhân, gắn liền với cá nhân, cá thể của bản thân.

 

  

+ Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện một cách đường hoàng độc lập.

(không phụ thuộc vào người khác)

 

 Nhận xét:

+ Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc. Thơ mới là tiếng nói của cái Tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.

+ Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều :

– Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.

– Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.

=> Chính vì đề cao giải phóng cái tôi nên thơ mới có sự xuất hiện của nhiều phong cách nghệ thuật riêng biệt, làm nên sự phong phú của cả nền thơ.

3. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.

* Hành trình vận động của cái tôi thơ mới:

– Ban đầu:  Nó thực bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất khách =>khó chịu, ác cảm

– Sau này: Nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá !=> quen dần và thương cảm.

=> Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để xem xét. Giọng điệu giàu cảm xúc.

* Bi kịch cái tôi thơ mới:

– Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì :

+ Mất cốt cách hiên ngang thưở trước: không có khí phách ngang tàng như Lí Bạch,  không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ (Rên rỉ, khổ sở, thảm hại).

+ Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch: “càng đi sâu càng lạnh”.

=> Cách trình bày Có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn), lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.

– Nguyên nhân: Hoàn cảnh lịch sử:

+ Bi kịch của người thanh niên thời ấy : Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc. (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới). Đó là nỗi niềm của người thanh niên mất nước, không có điểm tựa, niềm tin trong cuộc đời.

+  Mỗi nhà thơ lại có một phong cách nghệ thuật với cái tôi độc đáo, hấp dẫn.

(Tư liệu: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhước Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoan như Xuân Diệu” ( Hoài Thanh)

*. Con đường giải quyết bi kịch :

– Họ gửi cả vào tiếng Việt.

– Bởi vì :

+ Tiếng Việt là văn hóa, tiếng nói của dân tộc Việt Nam: là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua.

+ Họ tin vào các giá trị vĩnh hằng trong cội nguồn dân tộc: thể thơ, ngôn ngữ (vì họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai).

– Nhận xét: Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt. Bởi họ tin rằng : Truyện Kiều còn, tiếng ta còn ; tiếng ta còn, nước ta còn.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Chỉ ra được nội dung cốt lõi của tinh thần thơ mới: cái tôi và nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên hồi bấy giờ.

– Đánh giá được thơ mới trong cả ý nghĩa văn chương và xã hội.

2. Giá trị nghệ thuật

– Kết hợp một cách hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật.

– Luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ; kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm cũng như nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic.

– Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo, tài tình có khả năng khơi gợi và tạo sức cuốn hút lớn….

Tìm hiểu văn bản: Người cầm quyền khôi phục uy quyền

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử – Cuộc đời

– Vích-to Huy-gô (1802 – 1885)  là một thiên tài nở sớm và rọi sáng từ đầu thế kỉ XIX cho đến nay.

– Bản thân:

+ Thời thơ ấu: trải qua nhiều đau khổ do gia đình mâu thuẫn.

+ Ông sinh ra và lớn lên trong thế kỉ XIX, một thế kỉ đầy bão tố cách mạng

+ Là nhà văn nổi tiếng nước Pháp thế kỉ XIX, là chủ soái của dòng văn học lãng mạn tích cực

– Ông là một người suốt đời có những hoạt động  xã hội và chính trị tác động mạnh mẽ đến những nhân vật và khuynh hướng tiến bộ của thời đại

b. Sự nghiệp văn học

* Tác phẩm chính

– Tiểu thuyết: Nhà thờ Đức bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862), Chín ba mươi (1874)…

– Thơ: Lá thu (1831), Tia sáng và bóng tối (1840), …

– Kịch: Ec-na-ni (1830),…

=> Ông là nhà văn đầu tiên của nước Pháp sau khi mất được đưa vào chôn cất ở điện Păng-tê-ông, nơi trước đó chỉ dành cho vua, chúa.

* Phong cách nghệ thuật

– Mỹ học lãng mạn kết hợp với cảm quan hiện thực tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục của lí tưởng thẩm mỹ V. Huy-go đối với cuộc đời. Đó là Cái đẹp của Tình thương yêu hòa đồng, của Hạnh phúc bình đẳng và của sự Tiến bộ vô tận của Con người. Và đó chính là giá trị bất hủ của ý nghĩa nhân văn trong tác phẩm Victor Hugo.

– Ông đã không ngần ngại xác định chức năng của nghệ sĩ như là một “nhà tiên tri” (prophète), một “pháp sư” (mage), mà tác phẩm là một “âm vang” (écho sonore) của thời đại, hòa hợp cá nhân người sáng tạo với dân tộc, nhân loại và lịch sử trong nhiệm vụ cải tạo cuộc sống để do đó khẳng định vai trò và sứ mệnh cao quí của người nghệ sĩ.

2. Tác phẩm

a. Tóm tắt đoạn trích

Phăng tin bị Gia-ve bắt bỏ tù, nhờ có Giăng Van-giăng chị mới thoát nạn rồi được đưa vào bệnh xá. Trong lúc đang hết lòng cứu giúp Phăng Tin, Giăng Van-giăng lại quyết định ra tòa tự thú vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan. Đoạn trích kể lại tình huống tên Gia-ve dẫn lính đến bắt Giăng Van-giăng khi ông đến thăm Phăng-tin ở bệnh xá. Khi Gia-ve đến, Phăng-tin nghĩ hắn đến bắt mình nên vô cùng sợ hãi. Vì không muốn dập tắt niềm hi vọng của Phăng-tin nên Giăng Van-giăng hạ mình cầu xin Gia-ve cho ông ba ngày để tìm ra con gái của chị. Nhưng Gia-ve vẫn tàn nhẫn tuyên bố Giăng Van-giăng là một tên tù khổ sai vượt ngục, hắn sẽ bắt ông. Nghe xong những lời lẽ ấy Phăng-tin đã tuyệt vọng tắt thở. Căm phẫn trước sự tàn nhẫn của Gia-ve, Giăng Van-giăng khôi phục uy quyền khiến Gia-ve phải run sợ. Giăng Van-giăng đến chỗ Phăng- tin nói những lời cuối với chị rồi đứng dậy quay về phía Gia-ve và nói “giờ thì tôi thuộc về anh”.

b. Xuất xứ – Hoàn cảnh sáng tác

* Xuất xứ: “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” được trích trong tiểu thuyết lãng mạn nổi tiếng “Những người khốn khổ”.

* Vài nét về tiểu thuyết “Những người khốn khổ”

– Hoàn cảnh sáng tác:

+ Tác phẩm được thai nghén gần 30 năm.

+ Ngay từ 1829,V.Huy-gô đã có ý định viết một cuốn tiểu thuyết về người tù khổ sai. Sau năm 1830 Huy-gô đặc biệt chú ý đến các vấn đề xã hội (phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, những bất công xã hội, sự sa đoạ của con người). Huy-gô bắt tay vào việc sưu tầm tài liệu và bắt đầu viết bộ tiểu thuyết này vào năm 1840, thoạt đầu gọi là “Những cảnh cùng khổ” và hoàn thành nó vào năm 1861.

+ Được xuất bản năm 1862

–  Tiểu thuyết “Những người khốn khổ” được chia làm 5 phần

+ Phần thứ nhất: Phăng-tin     

+ Phần thứ hai: Cô-dét

+ Phần thứ ba: Ma- ri-uýt

+ Phần thứ 4: Tình ca phố Pơ- luy- mê và anh hùng ca phố Xanh Đơ- ni.

+ Phần thứ 5: Giăng Van- giăng.

– Nội dung: Tái hiện lại khung cảnh Pari và nước Pháp ba thập kỉ đầu thế kỉ XIX, xoay quanh số phận nhân vật Giăng Van-giăng, từ khi được ra tù đến lúc qua đời trong lãng quên thầm thầm lặng với thông điệp: Trên đời, chỉ còn một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau.

– Giá trị:

+ Tư tưởng: Tác phẩm đã ghi lại những nét hiện thực về xã hội Pháp vào khoảng năm 1830 – cái xã hội tư sản tàn bạo và tình trạng cùng khổ của người dân lao động.

+ Nghệ thuật: Tác phẩm chứng tỏ được tài năng của Huy-gô qua bút pháp mang khuynh hướng nghệ thuật lãng mạn.

c. Vị trí đoạn trích

– Người cầm quyền khôi phục uy quyền nằm ở cuối phần thứ nhất. Vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia- ve bắt oan, Giăng Van-giăng buộc phải tự thú mình là ai…

d. Nhan đề đoạn trích

– Tầng nghĩa 1: Chỉ sự việc Gia-ve khôi phục uy quyền trước Giăng Van-giăng (trước khi Giăng Van-giăng là thị trưởng Ma-đơ-len, Gia-ve buộc phải phục tùng).

– Tầng nghĩa 2Mặc dù Giăng Van-giăng là đối tượng săn đuổi của Gia-ve, nhưng bằng sự bất khuất và sức mạnh của tình thương, ông vẫn có thể đẩy lùi và chiến thắng được hắn, khiến hắn khuất phục, run sợ => Giăng Van-giăng khôi phục uy quyền.

e. Bố cục: 2 phần

+ Phần 1 (từ đầu đến “Phăng-tin đã tắt thở“): Gia-ve đến bắt Giăng Van-giăng khiến Phăng-tin đang bị bệnh càng khiếp sợ đến chết.

+ Phần 2 (Còn lại): Giăng Van-giăng từ biệt Phăng-tin, thầm hứa với linh hồn người phụ nữ bất hạnh.

II. Trọng tâm kiến thức

* Sự đối lập giữa hai nhân vật Gia-ve và Giăng Van-giăng

1.  Khi Gia – ve đến bắt Giăng Van-giăng dưới dự chứng kiến của Phăng-tin:

– Chân dung:

* Nhân vật Gia – ve

Giọng nói: man rợ, “điên cuồng như tiếng thú gầm”.

Cặp mắt “nhìn như cái móc sắt từng quen kéo giật vào hắn bao kẻ khốn khổ, đi thấu vào xương tủy”.

Cái cười “ghê tởm phô tất cả hai hàm răng” Dùng từ thô lỗ, đầy vẻ khinh miệt, ác ý, độc địa.

=> Từ chỗ lột tả bản chất của Gia-ve qua cử chỉ, hành động tác giả đã vẽ nên ấn tượng về thái độ của Gia-ve qua đôi mắt nhìn của một loài ác thú,

=> Sự so sánh độc đáo đã tạo nên cho bạn đọc cảm giác về sự hiểm ác ẩn chìm trong ánh nhìn.

* Nhân vật Giăng Van – giăng

+ Giọng nói: một giọng nói hết sức nhẹ nhàng và điềm tĩnh: ”cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu”.

=> Có thể nói, Giăng Van-giăng là người biết đồng cảm và sẻ chia. Sự xuất hiện của con người này thật sự trở thành niềm an ủi, hạnh phúc cho Phăng-tin.

=> Điều này chứng tỏ Giăng Van-giăng là một người có bản lĩnh thép, không sợ cường quyền, ở trong hoàn cảnh này, bản lĩnh thép của Giăng Van-giăng lại tỏa sáng.

 

– Thái độ:

+ Gia-ve với Giăng Van-giăng:

Ban đầu “hắn đứng lì một chỗ mà nói”, ”kéo giật vào hắn”, sau đó hắn mới “lao tới tiến vào giữa phòng” , “nắm lấy cổ áo ông Thị trưởng”.

=>Tác giả sử dụng hàng loạt những động từ mạnh kế tiếp nhau với mức độ tăng dần nhằm miêu tả hành động của Gia – ve chứa đựng đầy đủ sự bạo tàn nham hiểm của một con ác thú.

=> Quả thật, Gia – ve hiện nguyên hình là một con ác thú không hơn không kém

 

 

 

 

+ Gia-ve với Phăng-tin:

> Gia-ve không hề quan tâm đến người bệnh là Phăng-tin

> Hắn quát tháo làm náo loạn cả phòng bệnh.

> Hắn không dấu điều mà Giăng-van-giăng phải bí mật với Phăng-tin khi hắn giễu cợt “Mày nói giỡn! Mày xin tao 3 ngày để chuồn hả? Mày bảo là đi tìm đứa con cho con đĩ kia! Á à! Tốt thật, tốt thật đấy!”

=>Thái độ hống hách, quát đạt trịnh thượng, coi khinh con người.

+ Giăng Van-giăng với Gia-ve :

> Thái độ : Đối lập với thái độ của Giave : Nếu như Gia-ve hùng hổ, hách dịch : « Nói to ! Nói to lên !…ai nói với ta thì phải nói to » thì Giăng-van-giăng lại hết sức nhã nhặn : « Tôi biết là anh muốn gì rồi ! »

=> Đây là một thái độ  hết sức khiêm nhường, tự kiềm chế biết mình biết người => Không hề muốn xảy ra xung đột, muốn giữ hòa khí`.

> Lời nói : « Thưa ông…Tôi muốn nói riêng với ông câu này »

=> Ngay cả khi Gia-ve nóng giận, cơn giận sôi sùng sục, bừng bừng khí thế gây chiến thì Giăng-van-giăng vẫn giữ phép lịch sự, từ tốn.

> Giăng-van-giăng có thái độ như thế để xin Giave gia hạn thêm ba ngày để tìm con cho Phăng tin.

Giăng Van-giăng với Phăng – tin:

> Yêu thương, trân trọng:

× Ông cầu xin Gia-ve gia hạn để tìm con cho Phăng-tin.

× Ông muốn giữ lời hứa với chị, vì không muốn chị đau khổ thêm nữa. Chứ thực sự, ông có một sức khỏe siêu việt, có thể trốn thoát khỏi tay Gia-ve bất cứ lúc nào.

=> Tất cả những hành động đó đều xuất phát từ lòng thương, sự chở che, bảo vệ con người.

+ Thái độ của Phăng-tin:

++ Với Giăng Van-giăng: Biết ơn, tin tưởng.

++ Với Gia-ve: Sợ hãi, ghê tởm. “Chị không thể chịu đựng được bộ mặt gớm ghiếc ấy, chị thấy như chết lịm đi, lấy tay che mặt và kêu lên hãi hùng”, “Chị rùng mình”…

2. Khi Phăng-tin qua đời

– Hành động

Nhân vật Gia-ve

– Phát khùng hét lên, toan gọi lính tráng

– Đứng lại, tay nắm lấy đầu can, lưng tựa vào khung cửa

– Mắt không rời Giăng Văn-giăng

=> Trước những hành động của Giăng Van-giăng, Gia-ve đã phải run sợ.

Nhân vật Giăng Van-giăng

* Với Phăng – tin

– Hành động: Ngồi yên lặng, nâng đầu đặt ngay ngắn, thắt lại dây rút áo, vén gọn tóc, vuốt mắt cho chị.

=> Động thái trang nghiêm, từ tốn, đầy tình thương

=> Hình ảnh gợi xúc động trong lòng người đọc

* Với Gia-ve:

– Hành động : «  Giăng-van-giăng đi tới, giật gãy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát…cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Giave trừng trừng »

=>  Sử dụng động từ mạnh kết hợp với tính từ  thể hiện hành động mạnh mẽ, quyết liệt, dứt khoát không đắn đo, suy tính.

=> Giăng-van-giăng như người anh hùng sẵn sàng dùng sức mạnh để bảo vệ chở che cho những người cùng khổ.

=> Biện pháp nghệ thuật so sánhthay đổi nhịp điệu câu văn

– Thái độ:

+ Nhân vật Gia-ve với Giăng Van-giăng

> Thái độ: Gia-ve lạnh lùng tàn nhẫn trước tình máu mủ thiêng liêng hắn không một chút động lòng thương xót.

> Trái tim hắn không một chút tình người, hắn là một kẻ vô tình – một kẻ lòng lang dạ thú.

> Trước hành động cao thượng và rất người của Giăng Van-giăng, hắn đã lùi bước trong run sợ.

=> Hình ảnh của một loài ác thú.

=> Gia-ve đứng trên công lí của nền dân chủ tư sản Pháp

+ Nhân vật Giăng Van-giăng với Gia-ve

Thái độ: Sau khi Phăng-tin chết, Giăng Van-giăng không nín nhịn nữa ông đã phản ứng : “Để tay lên bàn tay Gia-ve đang túm lấy ông, cậy bàn tay hắn ra như cậy bàn tay trẻ con và bảo hắn: Anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó”

=> Giăng Van – giăng dần khôi phục lại uy quyền. Lời nói của Giăng Van-giăng tuy từ tốn nhưng có một sức mạnh lớn lao như lời kết án của quan tòa. Địa vị người thực thi công lí đã thay đổi.

=> Giăng Van-giăng dựa trên công lí của lương tri. Chính lương tri đạo đức con người đã mang lại cho Giăng Van-giăng một sức mạnh vô song.

 * Chi tiết cuối: Giăng Van-giăng thì thầm điều gì bên tai Phăng-tin (lúc ấy đã chết rồi) đề rồi sau đó “gương mặt Phăng-tin sáng rỡ lên một cách lạ thường”.

=> Là biểu hiện độc đáo của nghệ thuật lãng mạn, hướng tới cái khác thường, phi thường trong hoàn cảnh khác thường.

=> Đó chính là nụ cười biểu trưng cho niềm tin tưởng của Phăng – tin trước tấm lòng Giăng Van – giăng, rằng sẽ cứu được đứa con của cô.

* Lời bình luận ngoại đề của tác giả:

–  Một loạt các câu hỏi liên tiếp:

+ Khẳng định niềm tin vào sức mạnh của cái thiện

+ Như một niềm trân trọng, an ủi của tác giả

+ Thể hiện tư tưởng, quan điểm của nhà văn trong bất kì khó khăn và tuyệt vọng nào, con người chân chính bằng ánh sáng tình thương có thể đánh đuổi được cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai.

– “Giờ thì tôi thuộc về anh”

=> Câu nói đưa ta trở về với hiện thực khắc nghiệt nhưng câu nói ấy vẫn toát lên một sự thanh thản, sẵn sàng chờ đón tất cả, thoải mái tự do đến lạ thường => Bản chất của sự khôi phục uy quyền tập trung ở cả câu nói này. Gia-ve không thể bắt được Giăng Van-giăng mà chỉ Giăng Van-giăng tự nộp mình vào tay Gia-ve.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Thông qua hình ảnh Giăng Van-giăng, tác giả thể hiện, quan điểm, tư tưởng, niềm tin vào con đường cải tạo xã hội.

– Cho dù trong hoàn cảnh nào, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai

* Bài học:

– Luôn yêu thương, trân trọng con người.

– Luôn có niềm tin vào con người, vào lòng tốt và tình yêu thương đồng loại của con người.

2. Giá trị nghệ thuật

– Bút pháp lãng mạn của Huy – gô

– Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, phóng đại.

– Sử dụng yếu tố hư cấu

– Nghệ thuật đối lập khi xây dựng hình tượng nhân vật

          Gia-ve    >  <   Giăng-van-giăng

            (ác)                        (thiện)

Tìm hiểu văn bản: Người trong bao – Sê – khốp

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử – Cuộc đời

– An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860 – 1904)

– Ông sinh trưởng trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta-gan-rốc, bên bờ biển A-dốp

– Năm 1884, tốt nghiệp Khoa Y, Trường Đại học Tổng Mát-xcơ-va.  Ông vừa là nhà văn vừa tham gia nhiều hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục.

– Năm 1887, ông được nhận giải thưởng Pu-skin của Viện Hàn lâm khoa học Nga.

– Năm 1900, Sê-khốp được bầu làm Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Nga.

– 1904, bị mắc bệnh phổi nặng, sang Đức chữa bệnh và mất ở nước ngoài. Gia đình và bạn bè đã đưa thi hài ông về nước.

b. Sự nghiệp văn học

* Tác phẩm chính

– Sự nghiệp sáng tác đồ sộ ở nhiều thể loại:

 + Hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa: Anh béo và anh gầy, Con kì nhông, Phòng số 6…

 + Nhiều vở kịch: Hải âu, Cậu Va-ni-a, Ba chị em,…

* Phong cách nghệ thuật

– Đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật Sê-khốp là sự giản di, thâm trầm, hàm súc.

– Cốt truyện thường đơn giản, ít yếu tố gay cấn, nhưng thường đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, ý nghĩa nhân bản sâu xa.

– Đặc biệt ông rất chú ý tới các chi tiết khắc họa nhân vật, tô đậm chủ đề tư tưởng của tác phẩm

=> Sê-khốp được xem là đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga nửa cuối thế kỷ XIX, là nhà cách tân thiên tài về thể loại truyện ngắn và kịch nói.

2. Tác phẩm

a. Tóm tắt truyện “Người trong bao”

Bê-li-cốp là một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp ở thành phố nhỏ nước Nga, ông nổi tiếng với phong cách ăn mặc hết sức đặc biệt. Quanh năm ông đều đi giày cao su, cầm ô và luôn luôn khoác thêm áo bành tô ấm cốt bông. Ông luôn để những dụng cụ cá nhân của mình vào một cái bao.

Bê-li-cốp khát khao thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một vỏ bọc để ngăn cách bảo vệ bản thân trước những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài. Cuộc sống khiến Bê-li-cốp cảm thấy khó chịu và sợ hãi vì vậy, ông luôn có ý nghĩ không thực, luôn ngợi ca quá khứ, mơ tưởng về những thứ không tồn tại. Ngay cả ý nghĩ ông cũng sợ có người biết được, ông luôn cố giữ như cất giấu vào “bao”.

Bê-li-cốp có thói quen rất kì quặc đó là đi hết nhà các giáo viên cùng dạy. Đến bất kỳ nhà nào, ông cũng kéo ghế ngồi rồi chẳng nói bất kỳ điều gì, chỉ nhìn xung quanh như đang tìm kiếm thứ gì đó, khoảng một giờ sau thì ông ra về. Ai cũng sợ ông, từ giáo viên đến hiệu trưởng, hiệu phó. Tuy sống cô đơn, một mình, nhưng ông cũng nghĩ đến việc sẽ cưới vợ. Và người đó là Va-ren-ca, là chị gái của Cô-va-len-cô, giáo viên trẻ mới ra trường.

Có người đã gửi cho Bê-li-cốp một bức tranh châm biếm. Ngày chủ nhật hôm sau, Bê-li-cốp chứng kiến cảnh hai chị em Va-ren-ca phóng xe vút qua khiến ông vô cùng ngạc nhiên và hoảng hốt. Nên tối hôm đó, Bê-li-cốp đã đến nhà Va-ren-ca để góp ý hai chị em họ. Hai người họ cãi nhau, Bê-li-cốp đoạn sẽ báo cáo sự việc này với hiệu trưởng nên Cô-va-len-cô đã túm áo và xô mạnh khiến Bê-li-cốp ngã nhào xuống cầu thang. Va-len-ca cười lớn, làm Bê-li-cốp cảm thấy nhục nhã vội vàng trở về nhà. Một tháng sau, Bê-li-cốp qua đời, mọi người cảm thấy nhẹ nhõm nhưng không lâu sau, lối sống cũ đã trở lại vì tính cách của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng quá lớn đối với mọi người.

b. Hoàn cảnh ra đời

* Bối cảnh hẹp: Viết 1898 trong thời gian nhà văn dưỡng bệnh ở thành phố I-an-ta, trên bán đảo Crưm, biển Đen.

* Bối cảnh rộng: Xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế, u ám, nặng nề của nước Nga cuối thế kỷ XIX.

c. Bố cục: 3 phần

– Mở truyện: cuộc trò chuyện ở gần nhà kho giữa hai người bạn: bác sĩ thú y và thầy giáo.

– Thân truyện: về cuộc đời và tính cách của Bê-li-cốp.

– Kết truyện: nhận xét của bác sĩ thú y – người nghe chuyện.

II. Trọng tâm kiến thức

1.  Hình tượng nhân vật Bê – li – cốp :

* Chân dung Bê-li-cốp được vẽ bằng những nét kì quái, dị thường:

– Bộ mặt : giấu trong cổ áo bành tô bẻ cao , mắt đeo kính râm

– Trang phục: luôn mặc màu đen; luôn “đi giày cao su”, mặc áo bành tô và “giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên”, “đeo kính râm”, “mặc áo bông chần”.

– Đồ dùng : Cái ô, đồng hồ quả quít, chiếc dao nhỏ để gọt bút chì … đều được để trong bao.

* Lối sống :

– Ở nhà: “mặc áo khoác ngoài”, “ đội mũ”,“đóng cửa”,“cài then”; buồng ngủ “chật như cái hộp”

– Sinh hoạt: lúc nào cũng “đi giày cao su”, “cầm ô”,”mặc áo bành tô”, “đeo kính răm”, “mặc áo bông trần”, “lỗ tai nhét bông”, ngồi xe ngựa thì luôn “kéo mui lên”; ngủ – “kéo chăn trùm đầu kín mít”.

– Đến thăm đồng nghiệp: kéo ghế ngồi chẳng nói gì, 1 tiếng sau ra về.

 (“đến nhà… kéo ghế ngồi… ngồi im như phỗng… rồi độ một giờ sau thì cáo từ”)

=> Chân dung kì quái, lập dị, không dám đối mặt với thực tế. Với “khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo ra cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ khỏi những ảnh hưởng bên ngoài”, “trốn tránh cuộc sống thực”.

* Tính cách của Bê – li – cốp :

– Bê-li-cốp có khát vọng mãnh liệt: “thu mình vào trong vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn mình khỏi những ảnh hưởng từ bên ngoài” → nhút nhát, ngại giao tiếp.

– Ý nghĩ giấu vào trong bao, không bao giờ dám có ý kiến về một vấn đề nào – “Cả ý nghĩ … bao”

– Nhút nhát, ghê sợ hiện tại nhưng lại ca ngợi, tôn sùng quá khứ: say mê và luôn ca ngợi tiếng Hi Lạp.

– Sùng bái cấp trên và những chỉ thị, thông tư một cách máy móc, rập khuôn – “Đối với hắn, … rõ ràng”

– Bảo thủ , giáo điều:

 + Đi xe đạp, mặc áo thêu ra đường là những việc buông thả

 + Phụ nữ mà đi xe đạp ra đường thì thật kinh khủng.

 + Thói quen trong quan hệ đồng nghiệp: “ngồi im như phỗng” và “ độ một giờ sau thì cáo từ”

– Luôn cô độc, lo lắng và sợ hãi:

 + Ở nhà: luôn đóng cửa, cài then, buồng nóng nực, ngột ngạt …

+ Câu nói cửa miệng: “Sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì”

 + Khi ngủ – “cảm thấy rờn rợn”, “sợ kẻ trộm chui vào nhà”

– Tự tin, tự hào về cách sống gương mẫu, trong sạch của mình.

=> Con người cô độc, kì quái, máy móc, giáo điều → Tính cách “trong bao”

* Cái chết của Bê-li-cốp :

–  Nguyên nhân:

+ Va chạm với Cô-va-len-cô → Bê-lê-cốp bị ngã cầu thang

+ Va-ren-ca nhìn thấy Bê-li-cốp bị ngã, cười phá lên → Bê-li-cốp thấy xấu hổ và lo sợ → một tháng sau thì chết.

– Lúc chết:  vẻ mặt trông hiền lành, dễ chịu, thậm chí còn có vẻ tươi tỉnh.

→ Cái chết của Bê-li-cốp bất ngờ nhưng là tất yếu. Với kiểu người và lối sống như Bê-li-cốp tất yếu xã hội sẽ đào thải.

=> Cái chết của Bê-li-cốp là một chi tiết quan trọng, đã đẩy tính cách nhân vật lên tới đỉnh điểm: bởi khi chết hắn vĩnh viễn được nằm trong “cái bao” mà hắn từng khao khát – quan tài.

2. Ảnh hưởng lối sống Bê-li-cốp với mọi người:

* Lúc Bê-li-cốp còn sống:

– Đồng nghiệp khinh ghét, ghê sợ hắn: “Bọn giáo viên … sợ hắn”

– Lối sống của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dai dẳng đến mọi người trong thành phố

  + Các bà cô không dám tổ chức diễn kịch tối thứ bảy.

 + Nhà tu hành không dám ăn thịt và đánh bài

 + Người ta sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…

=> Cách sống của Bê-li-cốp có ảnh hưởng ghê gớm đến cộng đồng, xã hội.

* Khi Bê-li-cốp chết:

– Lúc đầu: mọi người cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái – “chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái”.

– Nhưng sau đó: lại nặng nề, u ám, mệt nhọc như cũ – “chưa đầy một tuần sau cuộc sống lại diễn ra như cũ”.

→ Mặc dù Bê-li-côp chết, nhưng những kiểu người như hắn thì vẫn còn tồn tại và có sự ảnh hưởng day dẳng, nặng nề đối với nước Nga lúc bấy giờ.

– Lời nhận xét của I-van i-va-nứt : “Không thể sống mãi như thế được!” → thức tỉnh con người khỏi lối sống “trong bao”. Hãy sống rộng mở, chân thực, lành mạnh, trong sáng và có ý nghĩa cao đẹp hơn. Đó chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm tới chúng ta qua truyện ngắn này.

3. Hình tượng “cái bao”:

“Cái bao” (12 lần) là biểu tượng giàu ý nghĩa, là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả:

+ Nghĩa đen: dùng để gói đựng đồ vật, hàng hoá.

+ Nghĩa bóng: Lối sống và tính cách của Bê-li-cốp

 → Kiểu người trong bao, lối sống thu mình trong bao – cuộc sống trói buộc, kìm hãm của nhân dân Nga, tri thức Nga cuối thế kỷ XIX.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Thể hiện cuộc đấu tranh giữa con người với cái “bao” chuyên chế và khát vọng sống là mình, loại bỏ lối sống “trong bao”

– Thức tỉnh “con người không thể sống mãi như thế này được”.

2. Giá trị nghệ thuật

– Cách kể, giọng chuyện chậm rãi, u buồn, giễu cợt một cách sâu cay.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình mang tính biểu tượng cho một giai cấp xã hội.

– Nghệ thuật xây dựng biểu tượng độc đáo, giàu tính khái quát.

Tìm hiểu văn bản: Tôi yêu em – Pu-skin

0

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Tiểu sử – Cuộc đời

– A-lếch-xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Puskin (1799 – 1837)

– Xuất thân trong một gia đình quý tộc mê thơ và biết làm thơ từ thuở học sinh.

– Xã hội: sinh ra và lớn lên trong thời đại cả nước Nga đang bị đè nặng bởi ách thống trị của chế độ nông nô chuyên chế

– Là nhà thơ mở đầu, đặt nền móng cho văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX.

b. Sự nghiệp văn học

* Phong cách nghệ thuật

– Đóng góp của Puskin cho nền văn học: Puskin có đóng góp trên nhiều mặt, nhiều thể loại, nhưng cống hiến vĩ đại nhất của ông vẫn là Thơ trữ tình với hơn 800 bài thơ và 13 bản trường ca bất hủ. Vì thế mà Puskin được xem là “Mặt trời của thi ca Nga” (Léc-môn-tốp).

– Về nội dung: thơ của Puskin thể hiện tâm hồn khao khát tự do và tình yêu của nhân dân Nga => Chính vì thế mà Bielinxki đã nhận định Puskin là “bộ bách khoa toàn thư của hiện thực đời sống Nga nửa đầu thế kỉ XIX”.

– Về nghệ thuật: Puskin có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại.

* Các tác phẩm chính:

– Tiểu thuyết bằng thơ: Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin, 1823-1831;…

– Bi kịch lịch sử: Bô-rít Gô-đu-nốp, 1825;…

– Trường ca: Ru-xlan và Li-út-mi-la, 1820; Người tù Cáp-ca-dơ, 1821;…

– Truyện ngắn: Cô tiểu thư nông dân,1830; Con đầm pích, 1833…

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời

– “Tôi yêu em” là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Puskin, được khơi nguồn từ mối tình của nhà thơ với A.Ô-lê-nhi-na, người mà mùa hè năm 1829 Puskin cầu hôn nhưng không được chấp nhận.

b. Nhan đề

– Bài thơ trong nguyên tác không có nhan đề. Nhan đề là của người dịch đặt cho tác phẩm.

– Giải thích nhan đề:

+ Đại từ “tôi” có nhiều nghĩa:

++ Có thể là Pu-skin.

++ Có thể là trái tim yêu của những chàng trai, Pu-skin là người thư kí trung thành của những trái tim ấy.

+ Cặp đại từ nhân xưng “Tôi-em”:

++ Gợi mối quan hệ giữa nhân vật trữ tình với đối tượng có khoảng cách vừa gần vừa xa, vừa đằm thắm vừa dang dở.

++ Là tình yêu đơn phương của chàng trai.

c. Bố cục: 2 phần

+ 4 câu đầu : Lời giải bày tình yêu chân thành.

+ 4 câu cuối : Cung bậc trong tình yêu và nhân cách cao thượng.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Bốn câu đầu: Lời giãi bày tình yêu

* Hai câu đầu:

– “Tôi (đã) yêu em”: Vừa là lời bày tỏ ngắn gọn, trực tiếp, giản dị, vừa là lời khẳng định tình cảm chân thành tha thiết.

+ Xưng hô : tôi – em => Trang trọng, giữ khoảng cách, gợi cảm giác vừa gần vừa xa.

– Ẩn dụ (ngọn lửa tình): Tình yêu cháy bỏng, nồng nhiệt

– Chưa hẳn (đã tàn phai): cách nói phủ định => khẳng định tôi đã, đang và vẫn yêu em.

– Giọng thơ: dè dặt, ngập ngừng trong lời thổ lộ: “có thể, chưa hẳn”

=> Qua hai dòng đầu là lời bày tỏ tình yêu chân thành, tha thiết của một trái tim thủy chung.

* Hai câu sau:

– “Nhưng” – quan hệ tương phản:

Tình yêu của tôi >< tình cảm của em => tạo mâu thuẫn trong tâm trạng, cảm xúc; mở ra thế giới suy tư lí trí .

– “Không”: hư từ phủ định => Lí trí kìm chế cảm xúc: dập tắt “ngọn lửa tình”, khẳng định sự tự nguyện từ bỏ tình cảm của mình

– “Bận lòng, bóng u hoài”: sự éo le trong tình cảm của các nhân vật trữ tình.

=> Lí trí >< tình cảm.

– Sự day dứt do những mâu thuẫn, giằng xé khi ngọn lửa tình yêu đang ngùn ngụt cháy nhưng phải dập tắt ngay để em không phải bận lòng thêm nữa.

– Vẻ đẹp nhân cách của nhân vật trữ tình: trung thực, chân thành.

=> Quan niệm tình yêu: tình yêu phải có sự kết hợp giữa cảm xúc và lý trí. Nó phải xuất phát từ tình cảm chân thành của cả hai phía. Trong tình yêu, tôn trọng người mình yêu cũng chính là tôn trọng chính bản thân mình.

2. Bốn câu sau: Nỗi đau khổ và lời nguyện cầu về một tình yêu chân thành của tác giả

– Điệp ngữ “Tôi yêu em” => không chỉ nối liền mạch cảm xúc, tâm trạng giữa hai khổ thơ mà còn tiếp tục khẳng định và giãi bày tâm trạng, tình yêu đơn phương của chủ thể trữ tình chuyển sang những biểu hiện khác.

– Nhân vật trữ tình nhớ về quá khứ, nhớ về những tâm trạng đau khổ, giày vò, hậm hực vì hờn ghen… vì thất vọng, vì không được đáp đền, đón đợi

=> Đó là sự tự trách mình yếu đuối, ghen tuông… bao thời gian trôi qua vẫn âm thầm đeo đuổi một mối tình si một phía.

“Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen”

=> Ích kỉ là điều tất yếu của tình yêu

– Âm thầm: lặng lẽ, thầm kín trong tâm hồn.

 – Lúc rụt rè: e rè, ngượng nghịu, không mạnh bạo nhưng có vẻ dịu dàng, đáng yêu

– Khi hậm hực: có khi giận hờn, bực tức vì phải chấp nhận điều mà mình không mong muốn.

=> Ở đây, lí trí đã nhường chỗ cho cảm xúc. Vẫn thể hiện rõ một tình yêu đơn phương, không hi vọng, đồng thời cũng thể hiện được sự mãnh liệt và những cung bậc tất yếu của tình yêu: sự rụt rè, ghen tuông và ích kỉ.

– Cách ghen của nhân vật trữ tình là một cách ghen có văn hóa, nó chứng tỏ một tình yêu đích thực, một tình yêu chân chính: Yêu chân thành, đằm thắm. Điều đó đã được chứng minh.

– Lời cầu chúc giản dị mà chứa đựng một nhân cách cao thượng.

+ Đây là một lời chúc tuyệt vời nhất mà cũng là lời chúc thông minh nhất rằng: Tôi đã yêu em, đang yêu em và mãi mãi yêu em: chân thành và đằm thắm.

+ Và dù trong trường hợp người em chọn không phải là “tôi” đi chăng nữa thì “tôi” vẫn luôn cầu chúc “em” có một người tình tuyệt vời như “tôi” đã dành cho “em”.

=> Lời cầu chúc vừa ẩn chút nuối tiếc, xót xa, vừa tự tin, kiêu hãnh và ngầm thách thức: Chẳng có ai khác yêu em được như tôi đã yêu em; và sao em lại có thể để mất đi một mối tình quý giá chẳng bao giờ có thể tìm thấy ở đâu và ở ai nữa, ngoài tôi!

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Bài thơ thể hiện tình yêu chân thành, đằm thắm đơn phương nhưng trong sáng và cao thượng của nhân vật trữ tình.

– Đó là một tình yêu chân chính, giàu lòng vị tha và đức hi sinh luôn mong muốn cho người mình yêu những gì tốt đẹp nhất.

2. Giá trị nghệ thuật

– Ngôn từ nghệ thuật giản dị, trong sáng.

– Biện pháp tu từ điệp ngữ.

– Nghệ thuật diễn tả lí trí và tình cảm song song tồn tại, giằng co… diễn tả thành công tâm trạng của nhân vật trữ tình.

đăng ký w88, w88, nhà cái uy tín, đăng ký 8xbet, w88 chuẩn nhất, trang cá độ bóng đá, fb88, 8xbet, link vào fun88, lô đề trên mạng, đánh đề trên mạng, link vào fb88, link vào 8xbet, trang cá cược bóng đá uy tín, nhà cái ok vip, cá cược qua mạng, trang cá độ bóng đá uy tín, trang chủ w88, nhà cái uy tín nhất, link vào w88, đăng nhập 8xbet, đăng ký fun88, m88, link vào m88 mới nhất, link vào m88