Đối với mỗi người Việt Nam, ký ức tuổi thơ thường gắn liền với những cây đa, bến nước, sân đình ở những làng quê xa mờ trong không gian và thời gian thăm thẳm. Còn đối với đất nước Cư-rơ-gư-xtan xa xôi và tươi đẹp, có núi đồi và thảo nguyên, những dãy núi trập trùng và áng mây lơ lửng bên trên “chẳng khác nào một đoàn chiến hạm đang bơi về một nơi nào đó” và cũng chính nơi đây là nguồn cảm hứng cho nhà văn Ai-ma-tốp thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Người thầy đầu tiên”. Và nhân vật họa sĩ trong truyện, mỗi lần thăm quê, ông không thể không đến thăm hai cây phong trên đỉnh đồi đầu làng. Vì sao? Bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu.
Những nội dung chính:
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Ai-ma-tốp (1928-2008) là nhà văn nước Cư-rơ-gư-xtan.
– Cư-rơ-gư-xtan là một nước công hòa miền trung á thuộc Liên Xô (cũ) – đất nước của núi đồi và thảo nguyên trập trùng, bát ngát và những áng mây lơ lửng bên trên như một đoàn chiến hạm đang bơi về một nơi nào đó.
– Những tác phẩm của ông thương nghiêng về kỷ niệm và cảm xúc.
– Đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đậm chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua thử thách, hy sinh thời chiến tranh; thái độ đấu tranh tích cực của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự rằng buộc của những tập tục lạc hậu.
– Ngay từ tác phẩm đầu tay “Gia-mi-li-a”-1958 được đánh giá rất cao. Nhiều tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Việt.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
“Hai cây phong” được trích trong tác phẩm “Người thầy đầu tiên” và đoạn trích này nằm ở phần đầu truyện. Nội dung của truyện được đặt vào bối cảnh của vùng thảo nguyên xa xôi hẻo lánh của một nước cộng hòa ở trung á thuộc Liên xô cũ vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX.
b. Tóm tắt văn bản “Hai cây phong”
Người thầy đầu tiên là một câu chuyện cảm động kể về cô bé An-Tư-Nai mồ côi cha mẹ, sống nhờ gia đình chú thím ở làng Ku-xu-rêu. Cô bé không được học hành và luôn phải chịu sự sai khiến của bà thím. Đuy-sen là một đoàn viên của đoàn thanh niên cộng sản được tổ chức cử về làng Ku-xu-rêu để mở trường dạy học cho các em nhỏ. Ở đây, Đuy-sen đã gặp An-Tư-Nai, kịp thời giúp em, cho em đến trường học. Nhưng sau đó bà thím độc bán đã gả bán cô cho một người đàn ông giàu có, đã có vợ. Một lần nữa, Đuy-sen đã giải thoát cho An-Tư-Nai và gửi em lên tỉnh học. An-Tư-Nai học tập tốt, em tiếp tục học lên nữa ở Mát-xcơ-va và trở thành viện sĩ. Lúc này, Đuy-sen đã già và làm nghề đưa thư. Khi còn học ở trường làng, có lần An-Tư-Nai được thầy Đuy sen mang về cho hai cây phong non và bảo em trồng, hy vọng An-Tư-Nai sẽ ngày một thêm sức sống và trưởng thành nhanh chóng như cây non không ngừng phát triển.
Trích từ truyện “Người thầy đầu tiên”, đoạn trích “Hai cây phong” tập trung miêu tả một cách sinh động hình ảnh hai cây phong qua cái nhìn và tâm hồn tinh tế, đầy xúc động của người kể chuyện – một họa sĩ:
Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi, một cao nguyên, phía dưới là thung lũng Vàng. Phía trên làng, giữa một ngọn đồi, hai cây phong to lớn, hùng vĩ như những ngọn hải đăng trên núi, như biểu tượng của tiếng nói riêng, như tâm hồn riêng của làng.
Vào năm học cuối, bọn trẻ chạy ào lên đấy phá tổ chim, leo lên hai cây phong cao vút để thấy hiện ra trước mắt chúng biết bao vùng đất chưa từng biết và những con sông chưa từng nghe.
Thuở ấy, nhân vât “tôi” chỉ cảm nhận sự gắn bó tuổi thơ mình với hai cây phong, tìm đến nó để tìm đến âm thanh kì diệu, những kí ức gắn liền suốt tuổi thơ, và ” tôi ” cũng ko biết vì sao ở đó được gọi là ” Trường Đuy-sen” .
Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.
b. Bố cục: 2 phần:
– Phần 1: Từ đầu… chiếc gương thần xanh: Hình ảnh hai cây phong trong cái nhìn và cảm nhận của người họa sĩ.
– Phần 2: Còn lại: Hình ảnh hai cây phong với những kỷ niệm ấu thơ.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Hai cây phong trong cái nhìn và cảm nhận của người họa sĩ
– Hai cây phong nằm ở phía trên làng, giữa ngọn đồi, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi.
– Mỗi lần về quê:
+ Từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc.
+ Bao giờ cũng cảm biết được chúng, coi bổn đầu tiên.
+ Mau chóng về tới làng, đến với hai cây phong, đứng dưới gốc để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất.
– Đứng ở một nơi cáo nhất trên làng, có thể cẩm nhận là nó đứng hiên ngang nơi đầu sóng, ngọn gió. Cõ lẽ, chính vì vị trí đứng nơi đầu sóng, ngọn gió, nơi cao nhất trên làng mà tác giả đã so sánh chúng hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi.
– Tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh rất độc đáo: Ngọn hải đăng đứng trên bờ biển tỏa ánh sáng soi đường, dẫn dắt những con tàu cập bến. Còn hai cây phong kia cũng đã từng làm nhiệm vụ chỉ lối dẫn đường cho biết bao người con làng Ku-ku-rêu hướng về tìm quê hương.=> Nghệ thuật so sánh của nhà văn thật có ý nghĩa.
=> Hai cây phong thực sự trở thành một hình ảnh thân thuộc trong tâm hồn người họa sĩ. Nó chính là điểm tìm về và hướng đến của một con người xa quê lâu ngày mới trở lại.
– Trong cảm nhận của nhân vật tôi:
+ Cây phong khác biệt so với những câu khác trong làng.
+ Có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng, chứa chan những lời ca êm dịu.
+ Ngày và đêm: không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau: nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành như một đốm lửa vô hình; có khi bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào; khi mây đen kéo đến cùng với bão dông, xô gãy cành, tỉa trụi lá, hai cây phong nghiêng ngã tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực.
– Tác giả đã sử dụng hàng loạt những liên tưởng, so sánh, nhân hóa âm thanh, tiếng nói của cây phong. Tác giả còn sử dụng tố chất hội họa và tố chất âm nhạc để vẽ lại những đường nét, màu sắc, nghe lại được những âm thanh trầm bổng, thấm đượm hơi lửa nồng ấm, đắm say của những vẻ đẹp mà hai cây phong đã phô ra, đã chuyền tới.
=> Hình ảnh hai cây phong hiện lên với hình hài cao lớn, hiêng ngang, với đường nét uyển chuyển, đẹp kỳ diệu. Đó là hình ảnh của quê hương, cũng là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ mà dẻo dai, kiêu hùng bất khuất mà dịu dàng, thân thương của những con người nơi đây. Như vậy, cây phong còn như một biểu tượng của hồn vía quê hương, là hình ảnh một con người yêu quê hương da diết.
2. Hình ảnh cây phong trong ký ức tuổi thơ
– Khi lũ trẻ chạy trên đồi, cây phong nghiêng ngả đu đưa như muốn chào mời đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền.
– Lũ nhóc con, chân đi đất, công kênh nhau bám vào các mắt mấu trèo lên làm chấn động cả vương quốc các loài chim khiến chúng chao đi chao lại trên đầu.
=> Tác giả đã sử dụng yếu tố tự sự xen lẫn miêu tả đã làm cho bức phác họa hiện lên thật rõ nét. Ta thấy bọn trẻ ở làng Ku-ku-rêu xa xôi sao bỗng trở nên gần gũi. Chúng có điều gì đó rất hồn nhiên tinh nghịch như tuổi thơ chúng ta vậy. Còn hai cây phong như những người bạn lớn vô cùng thân thiết, bao dung, độ lượn và gắn bó với lũ trẻ trong làng.
– Từ trên cao nhìn xuống, như một phép màu nhiệm, bọn trẻ nhìn thấy cả một thế giới đẹp vô ngần:
+ Chuồng ngựa của nông trang như các nhà xép.
+ Thảo nguyên hoang vu trong làn sương mờ đục.
+ Dòng sông lấp lánh tận chân trời.
– Chính từ trên cao nhìn xuống cho nên tầm mắt lũ trẻ được mở rộng, một khoảng không gian bát ngát, một thế giới vừa lạ, vừa quen mà nếu đứng dưới gốc cây phong hay trên thảo nguyên, chúng ta không thể nào thấy được.
– Tuổi thơ ham hiểu biết, thích khám phá, lần đầu tiên được nhìn ngắm toàn cảnh quê hương đầy thú vị mà hai cây phong là bệ phóng cho những ước mơ, khát vọng lần đầu tiên thức tỉnh trong tâm hồn những đứa trẻ làng Ku-ku-rêu.
=> Với họa sĩ, hai cây phong đã trở thành người tiếp sức, trở thành bệ phóng cho những ước mơ, khát vọng được khám phá những điều mới lạ ở nơi xa thẳm trong tâm hồn người họa sĩ thuở ấu thơ.
III. Nghệ thuật
1. Nội dung
Hai cây phong là biểu tượng của tình yêu quê hương sâu nặng gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của người học sĩ làng Ku-ku-rêu.
2. Nghệ thuật
– Lựa chọn ngôi kể, người kể tạo nên mạch kể lồng ghép, độc đáo.
– Miêu tả bằng ngòi bút đậm chất hội họa, truyền sự rung cảm đến người đọc.